Thứ Tư, 11 tháng 5, 2016

ĐĐVU 15-16 / TRÒ CHUYỆN VỚI “NGƯỜI LÀM ẤN TỐNG”


Tháng 6-2015 đánh dấu chặng đường bảy năm hoạt động của Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo. Có thể nói Chương Trình này là một người bạn rất thân thiết với tín chúng Hội Thánh Truyền Giáo, bởi vì mỗi lần in kinh sách, Chương Trình đều dành một số lượng lớn để biếu riêng cộng đồng tín chúng miền Trung. Nhân dịp Chương Trình vừa bước sang năm thứ tám, SỐNG ĐẠO đã có cuộc trò chuyện với đạo huynh Huệ Khải - người sáng lập và “gồng gánh” Chương Trình Chung Tay Ấn Tống.
SỐNG ĐẠO (SĐ): Thưa đạo huynh, Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo vừa tròn bảy tuổi (tháng 6-2008 / tháng 6-2015). Để chia sẻ niềm vui này với Chương Trình, Ban Biên Soạn tài liệu tu học SỐNG ĐẠO cử tệ đệ đến đây, gọi là phỏng vấn đạo huynh . . .
HUỆ KHẢI (HK): Tôi chân thành cảm ơn Ban Biên Soạn SỐNG ĐẠO và hiền hữu. Nhưng thay vì phỏng vấn, chúng mình tâm tình với nhau thì sẽ dễ chịu hơn.
: Vâng. Sáng Chủ Nhật 19-5-2013 tại Trung Hưng Bửu Tòa (Đà Nẵng), Chương Trình Ấn Tống có buổi giao lưu lần thứ hai rất hào hứng với đông đảo bạn đọc miền Trung. Tiếc rằng thời gian hạn hẹp, hôm đó tệ đệ không có điều kiện đặt câu hỏi với đạo huynh. Giờ đây tệ đệ xin bắt đầu bằng câu hỏi đã bị “treo” suốt hai năm qua:
Kinh sách ấn tống, thậm chí là Đại Đạo Văn Uyển, chèn vào khá nhiều tiếng Anh và chữ Hán. Tín chúng phần đông cảm thấy rối mắt, đọc không sướng! Đạo huynh có nghĩ rằng chính vì thế đạo chúng sẽ kém mặn mà với kinh sách do Chương Trình Ấn Tống khổ công thực hiện?
HK: Tôi từng có lần tâm tình trên một vài quyển đã ấn tống, giãi bày rằng việc chèn tiếng Anh và chữ Hán là bất đắc dĩ. Trong hoàn cảnh Đạo mình còn thiếu quá nhiều sách công cụ (từ điển) để tra cứu, thiếu các cơ sở đào tạo giáo lý… tôi muốn mượn kinh sách ấn tống như một hình thức “hàm thụ” trợ giúp đồng đạo tự bồi dưỡng về giáo lý.
: Chương Trình đã in được một vài tập sách song ngữ Việt-Anh. Có lẽ phần đông giới trẻ như tệ đệ rất hoan nghênh. Nhưng một số tín hữu mộc mạc ắt chẳng khỏi tự hỏi rằng tại sao không in riêng phần tiếng Anh cho tiết kiệm; bởi vì bà con chủ yếu chỉ cần đọc phần tiếng Việt.
HK: Nếu in riêng tiếng Anh thì mình sẽ phát hành đi đường nào, hiền hữu? Và chỉ in bao nhiêu cuốn? Thật ra in riêng sẽ tốn kém hơn và không hiệu quả vì phải in số lượng rất ít, lại không có chỗ để phổ biến. Thà in ghép mà còn có thể giúp thêm phương tiện tham khảo cho quý tín hữu nào đang nuôi hoài bão sau này truyền giáo bằng tiếng Anh.
: Tệ đệ vừa được xem quyển Đạo Cao Đài Trong Đời Sống Công Chúng / Caodaism in Public Life.([1]) Tệ đệ thấy đạo huynh dịch hai chữ Tam Công rất gọn và có vẻ… hữu lý (cười). Dĩ nhiên sách vở hiện nay chưa có ai dịch Tam Công the Three Merits như đạo huynh. Xin đạo huynh chia sẻ kinh nghiệm tạo từ (coinage) với giới trẻ.
HK: Công Quả, Công Trình, Công Phu được Ơn Trên tóm gọn là Tam Công, tức là ba công. Mình nên dịch sao cho gọn và cũng tuân thủ “cấu trúc” đó. Công Quả hiểu gọn là phục vụ (Service); Công Trình là luyện kỷ (Self-restraint); Công Phu là tham thiền (Meditation). Ba chữ Service, Self-restraint, Meditation ráp lại thì thiếu yếu tố chung giống như chữ Công. Vậy, phải tạo ra nó. Trong từ Hán-Việt, khi nói Công thì hàm nghĩa công trạng, công lao, công đức; nó khá tương đồng với chữ Merit trong tiếng Anh. Do đó, tôi dịch Tam Công là the Three Merits; dịch Công Quà là the Merit of Service; Công Trình là the Merit of Self-restraint; Công Phu là the Merit of Meditation.
: Nếu đạo huynh có kinh nghiệm tạo từ như vậy, tại sao lại “dịch” hai chữ nhân bản nhan-ban, tức là gần như dùng y nguyên tiếng Việt? Tức là đạo huynh bó tay?
HK (Cười): Quả là bó tay! Điều này tôi đã giải thích rõ trong sách. Ở đây nói vắn tắt thì Nhân bản là một thuật ngữ đạo học mang nhiều ý nghĩa đặc biệt, chỉ xuất hiện trong giáo lý Cao Đài. Nó là “đặc sản” của Cao Đài. Mình không thể tìm một từ tương đương nào trong tiếng Anh mà có thể bao hàm tất cả những ý nghĩa phong phú gói ghém trong hai chữ nhân bản hiểu đúng theo giáo lý Cao Đài. Vậy thì tại sao không giữ nguyên tự dạng của nó là nhan-ban?
Hàng trăm năm nay thế giới phương Tây hễ thấy chữ Dao (hay Tao) thì biết ngay nó là “đặc sản” của Lão Giáo Trung Quốc; hễ thấy chữ Karma thì lập tức xác định nó là “đặc sản” của Phật Giáo Ấn Độ, thấy chữ Shinto thì nhất quyết nó là “đặc sản” của Thần Đạo Nhật Bản. Vậy thì tương lai phương Tây hễ thấy developing nhan-ban, thấy restoration of nhan-ban, v.v… họ sẽ nhớ ra nhan-ban chính là “đặc sản” của Cao Đài Giáo Việt Nam.
: Trước đây, mỗi khi muốn thử diễn tả hai chữ sống đạo bằng tiếng Anh, tệ đệ thường rất lúng túng. Có lần tệ đệ thử dịch là to live a religious life / to lead a religious life; nhưng lại thấy không ổn, vì như thế có nghĩa là sống đời tín hữu, sống đời tôn giáo. Trong khi một người thực sự đang sống đạo lại rất có thể không theo một tôn giáo nào; còn nhiều người tuy đang có tôn giáo nhưng họ lại không hề sống đạo đúng nghĩa.
HK (cười): Hiền hữu hoàn toàn chính xác! Traduttore, traditore! Dịch là diệt!
: Khi đọc Đạo Cao Đài Trong Đời Sống Công Chúng, tệ đệ thấy đạo huynh dịch sống đạo to live the Dao. Trên “cơ sở” nào mà đạo huynh tạo từ như vậy? Liệu nó có được bá tánh chấp nhận không?
HK: Khi tìm cách chuyển các thuật ngữ Cao Đài sang tiếng Anh, chúng ta hầu như luôn luôn gặp trở ngại là thiếu những sách công cụ (từ điển) thích hợp. Vì đạo của mình hãy còn mới, bề dày tu thư biên khảo của học giới Cao Đài hãy còn quá mỏng. Nhu cầu dịch thuật buộc mình phải tạo từ. Tuy nhiên, mấy chữ “to live the Dao” không phải là sáng kiến của tôi, mà chỉ là ngẫu nhiên trùng hợp.
Tôi hiểu rằng sống đạo tức là sống phù hợp các nguyên lý của Đạo. Do đó, lúc đầu tôi dịch sống đạo to lead a life in harmony with Dao. Nhưng thấy như vậy dài dòng quá. Tôi suy nghĩ, hay là cứ thử dịch sát từng chữ (theo kiểu word by word) to live the Dao. Thế rồi tôi tự hỏi: Trên thế giới, đã có ai từng dùng cụm từ to live the Dao chưa? Tôi bèn gõ “to live the Dao” vào công cụ tìm kiếm Google thì sung sướng quá, thấy rằng đã có khá nhiều tác giả Anh Mỹ viết y như vậy rồi, đơn cử như Stephen C. Rowe khi viết cuốn Overcoming America, America Overcoming: Can We Survive Modernity? (Nhà xuất bản Lexington Books in năm 2012, trang 180.)
(cười): Tệ đệ hỏi hơi thừa: Dĩ nhiên đạo huynh đã phải đọc kỹ cụm từ to live the Dao trong các ngữ cảnh (contexts) truy cập được trên Internet để đảm bảo rằng nó diễn tả giống với ý nghĩa như người Cao Đài vẫn hiểu?
HK: Thì phải làm như vậy thôi! Ngày nay, mỗi khi dịch thuật ngữ Cao Đài, chúng ta có thể khai thác lợi ích của Internet. Tôi kể một kinh nghiệm này nữa, hiền hữu nhé!
Quan tâm tới Tôn Giáo Học, tôi thấy tiếng Anh thường dùng thuật ngữ Religious Studies, hay Study of Religions, tức là Nghiên Cứu Tôn Giáo. Nhưng tôi không hài lòng với tập quán đó. Tôi nghĩ, khi gọi tên một môn học, tiếng Anh thường có hậu tố (suffix) là ­-logy. Thí dụ: Astrology (Chiêm Tinh Học); Mythology (Thần Thoại Học); Physiology (Sinh Lý Học); Theology (Thần Học); v.v… Tại sao mình không thử tạo ra từ Tôn Giáo Học giống cách thức như thế?
Religion (Tôn Giáo) do gốc Latin là Religio; vậy thì cứ dịch Tôn Giáo Học là Religiology. Sau đó, tôi tự hỏi: Trên thế giới, đã có ai dùng thuật ngữ này chưa? Tôi bèn gõ “Religiology” vào công cụ tìm kiếm Google, và sung sướng thay, tôi phát hiện ra một danh gia người Nhật là Hideo Kishimoto (1903-1964) - giáo sư giảng dạy ở Viện Đại Học Tokyo (Nhật), cũng như ở ba Viện Đại Học Harvard, Stanford, và Princeton (Mỹ) - chính là người sáng tạo ra thuật ngữ Religiology. Thế là tôi yên tâm.
: Tệ đệ cảm ơn đạo huynh đã dành thời gian trò chuyện, chia sẻ kinh nghiệm dịch thuật rất bổ ích, và đồng thời giúp tệ đệ hoàn thành đạo sự do Ban Biên Soạn SỐNG ĐẠO giao phó. Sau cùng, nhân dịp Chương Trình Chung Tay Ấn Tống bước sang năm thứ tám, tệ đệ xin cầu nguyện cho Chương Trình Ấn Tống hoàn hảo ở giai đoạn đầu, hoàn hảo ở giai đoạn giữa và hoàn hảo ở giai đoạn cuối, như lời chúc mà Chương Trình đã nhận được vào buổi hội ngộ sáng Chủ Nhật 19-5-2013 tại Trung Hưng Bửu Tòa.
SỐNG ĐẠO (tập Thu Ất Mùi, tr. 175-179)
Hà Nội: Nxb Tôn Giáo 2015



([1]) Của Thiện Quang và Huệ Khải. Hà Nội: Nxb Tôn Giáo. Quyển 89-1 trong Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo.