Thứ Bảy, 14 tháng 5, 2016

ĐĐVU 17 / XUÂN CẢNH XUÂN TÂM / Thánh giáo


Minh Lý Thánh Hội
Tuất thời, 09-01 Mậu Thân (Thứ Tư 07-02-1968).
Thông công: Bộ phận Hiệp Thiên Đài Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam.
Pháp Đàn: Huỳnh Chơn; Đồng Tử: Hoàng Mai; Độc Giả: Bạch Tuyết; Tứ Bửu Hộ Đàn: Bạch Tuyết, Diệu Long; Điển Ký: Ngọc Kiều, Hồng Cẩm, Cao Lương Thiện; Chưởng Nghiêm Pháp Quân: Thiện Bảo; Chứng đàn: Chức việc Minh Lý Thánh Hội, Ban Thường Vụ CQPTGL; Hầu đàn: Môn sanh MLTH và nhơn viên CQPTGL.
THI
Trần ai khó nhiễm ánh Mâu Ni
Hưng thạnh suy vong có lạ gì
Đạo nghiệp là hồn xuân hướng đạo
Cõi đời đến tạm, tạm rồi đi.
Trần Hưng Đạo
Bản Thánh chào chư Thiên ân hướng đạo. Chào chư hiền nam nữ trung đàn.
Mùa xuân Mậu Thân, một mùa xuân hỗn loạn của người đời và cũng một mùa xuân trung hưng ([1]) cơ đạo. Bản Thánh đến trần gian với chư hiền trong giờ nầy để đem tấc lòng của anh linh Tổ Quốc còn lưu lại trên dải non sông để cùng chư hiền tìm giải pháp phổ độ Kỳ Ba mà Thượng Đế đã nấy trao ([2]) sứ mạng. Chư hiền đệ, hiền muội hãy an tọa.
Bản Thánh từ lâu phụng thừa ([3]) Thiên lệnh, đã đem giềng mối đạo lý phổ truyền trong thời gian bốn mươi hai năm khai Đạo,([4]) chỉ mong rằng dân tộc ta, nước nhà ta lĩnh hội được đạo lý để thoát vòng trầm luân ([5]) đọa lạc ([6]) trong thời kỳ hạ nguơn mạt kiếp ([7]) tái tạo dinh hoàn.([8])
Công trình, công phu của những cộng sự với Bản Thánh([9]) nơi Minh Lý đã giúp Bản Thánh rất nhiều trong sứ mệnh thiêng liêng để kịp thời ứng phó với mọi biến chuyển trong đời. Hôm nay dù cho nhiệm vụ chưa hoàn thành, nhưng cũng đã giúp rất nhiều trên việc xương minh ([10]) đạo pháp, mà [tại] Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý chư hiền phận sự sẽ liên quan đến công việc hoằng dương ([11]) đạo lý ở ngày mai.
Trước cảnh trạng chia đôi của tâm hồn đời đạo, Bản Thánh có đôi lời tâm huyết gởi gắm đến chư hiền nơi đây và tất cả.
Hỡi chư hiền! Đời càng hỗn loạn, đạo càng phải trị.
Đời toan tách rời đạo, đạo bắt buộc phải đi vào đời. Đời đã xa đạo, đạo phải tha thiết kêu gọi người đời. Ngọn đuốc thiêng không bao giờ đốt lên khi trời quang đãng, mà chính phải dùng trong đêm tối âm u.
Chư hiền nên nhớ rằng đêm tối sẽ càng thêm tối, khi không có hay quá xa ngọn đèn.
Giờ phút nầy chư hiền có biết chăng? Bổn phận vi nhơn([12]) cũng như [bổn phận] người hướng đạo,([13]) chư hiền hãy phục vụ cho nhân sinh, đạo sẽ phục vụ cho chư hiền. Sự thăng trầm bĩ thới ([14]) đối với người hướng đạo chẳng có gì đáng quan trọng, mà quan trọng nhứt là không nắm được thời gian để ghi vào lịch sử của một truyền thống tiền nhân.
Đấng Chí Tôn không bảo chư hiền phải kính yêu Ngài, mà muốn cho chư hiền phải kính yêu vạn loại.([15]) Tinh thần ấy sẽ đem lại điều mà dân tộc đang ước mong, đang hy vọng trong cảnh trần tù ([16]) chưa lối thoát.
Thiên thời, địa lợi, nhơn hòa, thu phục nhân tâm là một điều khó, mà khó hơn hết là lòng người không giữ mãi được vẹn toàn. Sự chiến thắng cao nhứt trên đời không phải là chiến thắng được tha nhân,([17]) mà phải chiến thắng bản tâm để un đúc tinh thần trên sức vạn năng Thiên lý,([18]) mới mong giải thoát được nghiệp quả trầm luân.
Vạn sự trên thế gian đều ở trong luật định. Hết ngày đến đêm, qua đêm lại ngày. Hết đông sang xuân, mãn xuân hè đến. Dù muốn dù không, cũng phải đặt gót chân trên đường Thiên luân ([19]) của định luật. Chỉ có đạo lý. Đạo lý sẽ đưa người đến chỗ sáng suốt, tìm hiểu cơ biến dịch đất trời, sẽ hòa hợp với lý thiên nhiên ngõ hầu ([20]) giải thoát thân tâm để phổ độ nhân sinh trong vòng mê muội.
Bản Thánh rất tiếc! Anh linh Tổ Quốc, truyền thống dân tộc, biết bao nhiêu hàng trí thức trong thời kỳ nầy, cơ hội nầy, lại không ý thức để hợp đồng mở lối, đem đường cho sinh linh thoát nạn.
Ôi! Nhìn lại khắp nước non, bao nhiêu dòng máu đổ, dễ ai tìm được dòng máu như dòng máu của Giêsu.
Người tu hành khổ hạnh trong các tôn giáo tìm ra chăng sự khổ của Thích Ca Mâu Ni cứu thế? Nếu không, đời ô trược ([21]) sẽ vẫn còn ô trược. Biết kêu gọi ai chừ ([22]) là thánh đức nguyên nhân?
Chư hiền hãy ghi nhận những khúc quanh của thế sự để kiểm điểm lại sứ mệnh thiêng liêng và chung tay góp sức cùng nhau trên con đường thế Thiên hành hóa.([23])
Mỗi khi chư hiền thấy một cuộc phong ba vừa yên lặng, người bị đắm cũng sợ sệt, mà chưa bị đắm cũng sợ sệt hãi hùng. Chư hiền chỉ phải vững vàng lèo lái trên con thuyền đạo để đưa khách sang khỏi sông mê bể khổ. Đó là những cơ hội hành đạo lập công của người hướng đạo.
Bản Thánh có lời nầy, chư hiền hãy nhớ và chuyển giao phổ truyền cho tất cả: Trời rộng bao la, Đại Đạo vô cùng. Nhưng đó là căn phòng đóng kín. Bao nhiêu huyền bí thiêng liêng nhiệm mầu siêu việt, nhưng chìa khóa mở Đức Chí Tôn đã đặt trong chỗ cao nhứt của mỗi người.([24]) Hãy tìm lấy và mở lấy.
Hỡi chư hiền!
THI
Xuân cảnh dù cho có thế nao
Xuân tâm riêng ở chí anh hào
Xuân tâm bền vững như xuân đạo
Cái thú muôn năm chẳng nhạt màu.
Bản Thánh chúc chư hiền được hạnh hưởng xuân tâm, để đem xuân đạo hòa cùng nhân sinh cho bớt nỗi điêu linh thống khổ.([25]) Rồi đây, chư hiền sẽ tiếp tục nhiệm vụ, tiếp tục sứ mệnh thiêng liêng.
Cuộc sinh trưởng thâu tàng ([26]) tất nhiên phải có. Người hướng đạo, người tu hành cũng cùng trong lẽ ấy, nhưng có khác hơn là sinh hữu căn, tàn hữu vị,([27]) mới gọi thực người trên thế gian, và tiểu linh quang nơi thượng giới.
Sắp đến giờ Đấng Chí Tôn lâm đàn. Chư hiền hãy kiểm điểm phẩm vật và truyền lệnh tất cả chư hiền nơi Minh Lý đến chầu lễ Chí Tôn. (…) Bản Thánh chào chung tất cả chư hiền đệ, hiền muội trung đàn.([28]) Thành tâm hành đại lễ nghinh giá Chí Tôn. Hẹn sẽ còn gặp lại. Thăng.
THI
Cánh hạc tung bay quét bụi hồng
Cho màu quang đãng chiếu trời đông
Cho người lỡ bước đường tăm tối
Thấy nỗi trầm luân tỉnh thức lòng.
Bạch Hạc Đồng Tử
Tiểu Thánh chào chư Thiên mạng. Chào liệt vị đàn tiền. Thành tâm hành đại lễ tiếp Đức Chí Tôn giá lâm. (…) Tiểu Thánh chào chư liệt vị. Xin xuất ngoại ứng hầu. Thăng.
THI
Động tác tuần huờn Tạo Hóa cơ ([29])
Băng tiêu noãn nhựt định Thiên thơ ([30])
Cao Đài xuất thế khai tân hội ([31])
Tận độ quần linh phục thái sơ.([32])
Ngọc Hoàng Thượng Đế
kim viết Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát
giáo đạo Nam Phương ([33])
Thầy các con.([34])
Các con đặt niềm tin trước ngoại cảnh,([35]) Thầy mừng cho các con, cho cơ đạo và vạn linh. Thầy giáng trong mùa xuân để ban huấn từ cho các con trong năm Mậu Thân. Thầy miễn lễ. Các con an tọa định tâm nghe Thầy dạy.
Thầy mở cơ tận độ trước bốn mươi hai năm ([36]) trên mảnh đất nầy, để sanh linh thức tỉnh hồi đầu ([37]) trong khi cuộc đời biến chuyển. Trên hai mươi năm tao loạn,([38]) người tín đồ trung kiên đã có Thiên ân sứ mạng ([39]) hãy ghi nhận từng cơn diễn biến, để ý thức bổn phận thiêng liêng trong bốn mươi hai năm qua và sắp đến.
Hỡi các con! Bốn mươi hai năm, Thầy và chư Phật Tiên đã dạy các con rất nhiều. Hôm nay, cảnh hãi hùng khốc liệt đã nhắc các con nhớ lại những lời Thầy dạy năm xưa.
Trong cuộc lọc thánh phân phàm, trong cơn sảy sàng chọn lựa giữa thời kỳ hạ nguơn mạt kiếp, các con hãy bình tĩnh hầu lãnh hội Thiên lý, tu thân tâm, hành chánh đạo, ngõ hầu phục hồi bản tánh chơn như nguyên nhân thánh thiện. Những ngoại cảnh chỉ có giai đoạn, mà nội tâm mới ghi được dòng lịch sử cổ kim. Người tu hành, trang lãnh đạo, hướng đạo, đối với ngoại cảnh, chỉ là cuốn phim đời, một màn vân cẩu,([40]) nhưng nội tâm vẫn vững vàng kiên cố như Vạn Lý Trường Thành bao bọc tinh thần hùng khí đạo nghiệp của bậc thánh đức nguyên nhân ở thời gian vô tận.
Thầy dạy lại các con những lời đã dạy:
Thầy đã tạo hóa vạn vật vũ trụ với đức háo sanh. Thầy không ban riêng cho vật nào, giống nào hay nước nào. Tất cả vạn vật trên thế gian nầy đều sanh trong đức háo sanh và diệt trong định luật của Thầy.([41])
Các con, hay nói chung là nhân loại, những hột giống linh căn được chọn gieo vào vũ trụ, được ban phát quyền tạo hóa để lập thành cuộc ngự trị cõi thế gian, mà các con gọi là đời. Mọi sự vật trên đời, nguyên nhân là Lý, là Đại Đạo, là Thầy, là Cha chung của vạn loại.([42])
Các con đã sanh trong Đại Đạo, hãy noi theo Đại Đạo mà thành về cõi thượng thiên vô cực.([43])
Thầy đã nói với các con: Dầu cho bậc Đại Giác Kim Tiên đến thế gian mà lìa Đạo, vong bản,([44]) cũng phải sa vào dục hải,([45]) hóa kiếp chuyển luân ([46]) trong dục giới.([47])
Lần nầy, các con hãy đem lời Thầy dạy mà nói lại với tất cả để gìn nội tâm trước ngoại cảnh điêu linh.([48])
THI
Phân thanh lóng trược máy huyền linh
Phàm thánh con tua ([49]) trước dọn mình
Luyện tánh tu tâm bồi quả đức ([50])
Cho nên mới đặng đến Thiên Đình.
Con ôi! Cảnh hỗn loạn không làm mất được mùa xuân. Sự rẽ chia không phải ngăn đường tận độ. Các con nào giác ngộ, thấu lý thiên nhiên, hãy hợp đồng ([51]) vun quén cội cây ân xá. Khi cội cây ân xá cuối cùng đã đơm hoa kết quả, thì giờ cuối cùng đã điểm. Các khối dục vọng sẽ va chạm với nhau, sẽ nổ bùng và tiêu tan theo tứ đại.([52]) Chừng đó, sự tu chứng và sứ mạng Tam Kỳ Phổ Độ của các con mới hoàn thành.
(…)
THI
Biết dụng tài hơn biết có tài
Buổi hạ nguơn Thầy mới đến đây
Nắm mối chơn tông quy vạn giáo ([53])
Sa chơn đành chịu lạc Cao Đài.
(…)
Các con đã nghĩ đến việc cứu trợ đồng bào ([54]) là các con đã biết trách nhiệm của người hành đạo.
Tổng Thơ Ký Minh Lý!([55]) Con hãy hợp cùng đại diện Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài Thanh Long ([56]) sắp chương trình cứu trợ cho Nữ Chung Hòa và Thanh Niên hành đạo.
Ba con tân nhiệm Nữ Chung Hòa phải hợp với các con cố vấn và nữ phái các thánh thất, tịnh thất thủ đô ([57]) cùng các tỉnh thi hành sứ mạng nầy.
(…)
Thầy ban ơn các con một mùa xuân tâm vĩnh cửu. Thầy hồi cung. Thăng.



([1]) Trung hưng 中興: Hồi phục lại sau thời kỳ suy yếu.
([2]) Nấy: Giao cho, phó thác. Nấy trao: Chánh thức trao phó.
([3]) Phụng thừa 奉承: Vâng lệnh bề trên mà làm theo.
([4]) Đức Thánh Trần dạy bài này (năm 1968) sau khi Đạo khai (năm 1926) được bốn mươi hai năm.
([5]) Trầm luân 沉淪: Chìm đắm (to sink).
([6]) Đọa lạc 墮落: Rơi vào cảnh khổ, sa vào cảnh đày đọa, tội lỗi (to morally degenerate, to become depraved, to fall into sin or depravity).
([7]) Hạ nguơn (nguyên) 下元: Thời kỳ cuối cùng của một đại chu kỳ. Tam nguơn gồm có:  Thượng nguơn (nguơn thượng đức, nguơn tạo hóa, the first kalpa); Trung nguơn (nguơn thượng lực, nguơn tranh đấu, the second kalpa); ƒ Hạ nguơn (nguơn điêu tàn, nguơn tái tạo để trở lại thượng nguơn, the last kalpa). Hạ nguơn cũng gọi là hạ nguơn mạt kiếp 下元末劫 hay mạt pháp 末法.
([8]) Tái tạo dinh hoàn 再造瀛寰: Tạo dựng lại thế gian, địa cầu (to rebuild the world, to recreate the earth).
([9]) Những cộng sự với Bản Thánh: Trong Tam Kỳ Phổ Độ, những người chân tu hướng đạo cũng là những người cộng sự, hợp tác với Trời Phật, Tiên Thánh.
([10]) Xương minh 昌明: Làm cho sáng tỏ nghĩa lý để mọi người thấu hiểu.
([11]) Hoằng dương 弘揚: Cũng như hoằng khai 弘開, phát triển rộng lớn (to develop and expand).
([12]) Bổn phận vi nhân (nhơn) 為人: Bổn phận làm người (duties of being human).
([13]) Người hướng đạo 向導: Người dẫn dắt đạo hữu (those who lead their brethren).
([14]) Bĩ thới (thái) 否泰: Vận rủi, xấu () và vận may, tốt (thái). Sướng khổ, may rủi.
([15]) Vạn loại 萬類: Muôn loài. Đấng Chí Tôn không bảo chư hiền phải kính yêu Ngài, mà muốn cho chư hiền phải kính yêu vạn loại: Đây chính là tư tưởng nhân bản (humanism) của đạo Cao Đài.
([16]) Trần tù 塵囚: Ngục tù thế gian. Cảnh thế gian ràng buộc làm con người mất tự do (vì chủ nhơn ông bị lục dục, thất tình sai khiến), vì thế cõi trần ví như chốn lao tù.
([17]) Tha nhân 他人: Người khác (other people).
([18]) Sức vạn năng Thiên lý: Sức mạnh siêu phàm vì theo đúng lẽ Trời.
([19]) Thiên luân 天輪: Luân là bánh xe (wheel), sự xoay vần (rotation). Thiên luân là bánh xe Tạo Hóa (God’s wheel), ám chỉ sự xoay vần của trời đất, sự vận chuyển của vũ trụ (God’s rotation).
([20]) Ngõ hầu: Để mà (in order to, so as to).
([21]) Ô trược (trọc) 汙濁: Đục, dơ bẩn (ôtrược cùng nghĩa).
([22]) Chừ: Giờ đây, bây giờ, lúc này (now, at present).
([23]) Thế Thiên hành hóa 替天行化: Thay Trời hành đạo để giáo hóa dân chúng tu hành.
([24]) Chỗ cao nhứt của mỗi người: Đó là đỉnh đầu, nơi có Nê Huờn Cung, Não Thất Ba (the third ventricle), cũng là Cao Đài nội tại (immanent God).
([25]) Điêu linh 凋零: Suy bại, tàn tạ, xác xơ, rã rời (decayed). Thống khổ 痛苦: Đau khổ (suffering).
([26]) Sinh (sanh) trưởng thâu (thu) tàng 生長收藏: Bốn giai đoạn tương ứng với bốn mùa xuân (sinh sôi), hạ (trưởng, phát triển), thu (gom lại, co cụm lại), đông (tàng bế, cất giữ); đồng nghĩa với thành trụ hoại không, thành thịnh suy hủy.
([27]) Sinh hữu căn, tàn hữu vị 生有根, 殘有位: Khi con người sinh ra đời thì gốc cội là Đại Linh Quang (Thuộng Đế), khi chết về trời thì có ngôi vị thiêng liêng (nếu đã hoàn thành sứ mạng làm người nơi cõi thế).
([28]) trung đàn (đàn trung 壇中): Ở trong đàn cầu cơ (at the spirit evoking séance).
([29]) Động tác 動作: Sự biến động, biến hóa. Tuần huờn (hoàn) 循環: Xoay vần theo chu kỳ (to circulate cyclically). Tạo Hóa cơ 造化機: Máy Tạo Hóa, máy Tạo, sự vận hành của trời đất (the Creator’s mechanism). Động tác tuần huờn Tạo Hóa cơ 動作循環造化機: Mọi sự biến chuyển xoay vần theo chu kỳ (như hết thịnh tới suy, hết ngày tới đêm, hết xuân sang hạ...) đều do máy Tạo.
([30]) Băng tiêu noãn nhật (nhựt) 冰消暖日: Băng giá tan ra trong ngày nóng ấm. Thiên thơ (thư) 天書: Sách Trời (the Heaven book). Định : Sắp đặt, quy định, an bài sẵn. Băng tiêu noãn nhựt định Thiên thơ 冰消暖日定天書: Những thay đổi trong trời đất đều nằm trong sự sắp đặt của Tạo Hóa, đều tuân theo máy Trời vận chuyển.
([31]) Cao Đài 高臺: Đạo Cao Đài (Caodaism). Xuất thế 出世: Xuất hiện trên đời, ra đời (to come into existence). Khai tân hội 新會: Mở ra vận hội mới. Cao Đài xuất thế khai tân hội 高臺出世開新會: Đạo Cao Đài xuất hiện trên đời mở ra vận hội mới (cho nhân loại).
([32]) Tận độ : Cứu độ hết tất cả (to save all). Quần linh 群靈: Các linh hồn (all souls); cũng có nghĩa như quần sinh 群生, chúng sinh 眾生 (all living beings, all human beings), vì mỗi chúng sinh là một điểm linh quang chiết từ Thượng Đế (khối Đại Linh Quang). Phục : Trở lại (to return). Thái sơ 太初: Lúc mới đầu. Tận độ quần linh phục thái sơ 盡度群靈 復太初: Cứu độ hết tất cả chúng sinh trở lại buổi ban đầu (thời thượng nguơn thánh đức).
([33]) Kim viết Cao Đài giáo đạo Nam Phương 今曰高臺教道 南方: Nay gọi là Cao Đài dạy đạo phương Nam.
([34]) Thầy các con: [Ta là] Thầy [của] các con. (I’m your Master.) Lưu ý: Trong tiếng Việt, chữ của thường được hiểu ngầm. Thí dụ: Nhà tôi, cha tôi… Một số người viết “Thầy, các con!” thì sai. Đức Mẹ khi giáng cơ thường xưng: “Mẹ Linh Hồn các con.” (I’m your Spiritual Mother.)
([35]) Các con đặt niềm tin trước ngoại cảnh: Dù ngoại cảnh có như thế nào, các con vẫn vững lòng tin tưởng.
([36]) Bốn mươi hai năm: Kể từ khi khai Đạo (1926) tới năm Thầy dạy bài này (1968).
([37]) Hồi đầu 回頭: Quay đầu lại, tỉnh ngộ (to turn one’s head).
([38]) Tao loạn 騷亂: Loạn lạc, giặc giã nhiễu nhương (wars, disturbance). Trên hai mươi năm: Tính từ giữa thập niên 1950 trở đi, cho tới năm 1968, lúc Thầy dạy bài này.
([39]) Có Thiên ân sứ mạng: Có sứ mạng do ơn Trời giao phó (having a mission bestowed by Heaven).
([40]) Vân cẩu 雲狗: Cũng nói là bạch vân thương cẩu 白雲蒼狗 (mây trắng chó xanh). Mây trắng biến thành hình chó xanh, ngụ ý nói việc đời luôn biến đổi (vô thường). Do hai câu thơ trong bài Khả thán 可嘆 của Đỗ Phủ 杜甫 (712-770): Thiên thượng phù vân như bạch y / Tư tu cải biến như thương cẩu. 天上浮雲如白衣 / 斯須改變如蒼狗. (Trên trời mây nổi như tà áo trắng / Phút chốc biến hình như con chó xanh.)
([41]) Đoạn này Thầy dạy về tình Tạo Hóa chí công vô tư. Trong Tân Ước, Chúa dạy không khác: “Thầy bảo anh em: Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính.” (Matthêu 5: 44-45)
([42]) : Cũng gọi Nguyên Lý (the Principle), là quy luật, một tên gọi khác của Đạo (Đại Đạo). Mọi sự vật trên đời, nguyên nhân là Lý, là Đại Đạo, là Thầy, là Cha chung của vạn loại: Lý (hay Đạo, Đại Đạo) là nguyên nhân sinh ra muôn sự vật, đây là theo quan niệm Thượng Đế Vô Ngã (Impersonal God). Khi quan niệm theo Thượng Đế Hữu Ngã (Personal God) thì nguyên nhân này là Trời, Thầy (Cao Đài Tiên Ông), Đại Từ Phụ, cũng là Cha chung muôn loài (the common Father of all).
([43]) Cõi thượng thiên vô cực: Cõi trời tuyệt đối, không còn nơi nào cao cả hơn nữa.
([44]) Vong bản (bổn) 忘本: Quên gốc (forgetting one’s origin); tức là quên rằng mình vốn là bậc nguyên nhân 原人 từ cõi trời đi vào trần gian để tiến hóa rồi trở về trời (Thiên Đình).
([45]) Dục hải 欲海: Biển ham muốn. Ham muốn, tham lam làm con người chìm đắm như biển (the sea of desires).
([46]) Chuyển luân 轉輪: Luân hồi (to be reincarnated, to be reborn).
([47]) Dục giới 欲界: Cõi mà chúng sinh (người, quỷ đói, thú vật, a tu la, các hồn ở địa ngục…) chịu đau khổ vì bị các ham muốn khống chế (the world of desires).
([48]) Gìn nội tâm trước ngoại cảnh điêu linh: Giữ cho trong lòng được bình thản trước cảnh đời xáo trộn, không để cho cảnh tượng bên ngoài chi phối, dẫn dắt làm tâm bị rối loạn. Thí dụ: Trong Tết Mậu Thân (1968) rất nhiều người bị bom đạn chết thảm, cảnh tượng rất hãi hùng. Thầy khuyên người tu hãy làm chủ lòng mình, không để cho ngoại cảnh cuốn lôi. Trước đó, trong cùng đàn cơ này, Đức Thánh Trần dạy tương tự: Xuân cảnh dù cho có thế nao / Xuân tâm riêng ở chí anh hào / Xuân tâm bền vững như xuân đạo / Cái thú muôn năm chẳng nhạt màu.
([49]) Tua (do chữ tu ): Nên, hãy nên (should, had better). Tua trước dọn mình: Trước hết hãy nên dọn mình, tức là thanh lọc tâm hồn mình (You had better purify yourselves first).
([50]) Quả đức 寡德: Đức còn ít ỏi (little virtue).
([51]) Hợp đồng 合同: Đồng lòng hợp sức, đồng tâm hợp lực (to cooperate with one another unanimously).
([52]) Tứ đại 四大: Bốn chất căn bản tạo thành xác thể con người là đất, nước, lửa, gió (the four great elements, namely earth, water, fire, and wind or air, of which the physical body is composed of).
([53]) Chơn (chân) tông 眞宗: Tôn chỉ, đường lối chân chính. Vạn giáo 萬教: Tất cả các tôn giáo (all religions). Khi lập đạo Cao Đài, Đức Chí Tôn chủ trương Tam Giáo quy Nguyên, Ngũ Chi phục Nhứt. Nguyên (hay Nhứt) là Đạo (cũng gọi Đại Đạo). Tam Giáo, Ngũ Chi đều từ Đạo (Đại Đạo) mà ra đời. Qua Kỳ Ba, tất cả trở về nguồn cội (Đại Đạo), chấm dứt cảnh phân biệt, kỳ thị, xung đột ý thức hệ. Có như vậy, các giáo mới có thể hợp tác với nhau tạo thành một thực thể đạo cứu thế.
([54]) Cứu trợ đồng bào nạn nhân chiến cuộc Tết Mậu Thân (1968).
([55]) Minh Lý: Thế danh là Đỗ Vạn Lý. Tiền bối Đỗ Vạn Lý sinh ngày 03-5-1910 tại quận Lai Vung, tỉnh Sa Đéc; quy thiên ngày 11-4-2008 tại Chatsworth, Los Angeles, California, Hoa Kỳ. Tiền bối học trung học tại Pháp, rồi tốt nghiệp khoa luật ở Viện Đại Học Sorbonne (Paris), sau đó lấy bằng Master ngành khoa học chính trị (political science) tại Viện Đại Học Columbia University (thành phố New York, bang New York). Vào giữa thập niên 1950, tiền bối làm tổng lãnh sự tại Jakarta (Nam Dương, tức Indonesia) và New Delhi (Ấn Độ). Tháng 9-1963 tiền bối làm đại sứ tại Hoa Kỳ, nhưng bị triệu hồi sau cuộc đảo chánh ngày 01-11-1963. Sau khi thôi giữ chức Tham Lý Minh Đạo kiêm Tổng Thơ Ký tại Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam (nay là Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo), tiền bối làm đại sứ tại Nhật hai năm (cho tới tháng 4-1975). Tiền bối là trưởng nam của cụ Đỗ Thuần Hậu (1883-1967, quả vị Huyền Pháp Đạo Nhơn).
([56]) Thanh Long: Thế danh là Lương Vĩnh Thuật (1918-1982), Bảo Pháp Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài, giáo sở trung ương là Trung Hưng Bửu Tòa (tại Đà Nẵng).
([57]) Từ 26-10-1955 đến 30-4-1954, Sài Gòn là thủ đô của Việt Nam Cộng Hòa, trong thời kỳ đất nước chia hai sau Hiệp Định Geneva (20-7-1954).
HUỆ KHẢILÊ ANH MINH hiệp chú.