Ám chỉ cuộc hôn nhân chánh trị giữa Công Chúa Huyền Trân nước Việt đời
Trần và vua Chế Mân nước Chiêm Thành (Champa), ca
dao Việt Nam
có câu: Tiếc thay cây quế giữa rừng / Để
cho thằng Mán, thằng Mường nó leo.
Sử gia Trần Trọng Kim (1883-1953) chép khá ngắn gọn về Công Chúa Huyền
Trân.([1]) Tuy nhiên, tổng hợp nhiều tài liệu
trên Internet, có thể trình bày sự kiện với những mốc thời gian chánh yếu như
sau:
Thái Tử Trần Khâm sinh năm Mậu Ngọ (1258), nối ngôi làm
vua, tức là Trần Nhân Tông. Ngài trị vì mười lăm năm (1278-1293), rồi truyền
ngôi cho Thái Tử Trần Thuyên (tức vua Trần Anh Tông, là anh Công Chúa Huyền Trân).
Trần Nhân Tông làm Thái Thượng Hoàng mười lăm năm (1293-1308).
Năm Tân Sửu (1301), bảy năm trước khi quy
thiên, Thái Thượng Hoàng Nhân Tông du hành phương nam, vào tận nước Chiêm Thành
xem phong cảnh, được vua Chiêm là Chế Mân (Jaya
Sinhavarman III) tiếp đãi nồng hậu trong gần chín tháng. Vì tình cảm ấy,
Thái Thượng Hoàng hứa gả Công Chúa Huyền Trân (sinh năm 1287) cho vua Chiêm.
Vì có lời hứa đó, vua Chế Mân (lên ngôi
năm 1288) sai sứ thần đưa vàng bạc cùng nhiều sản vật quý đến kinh thành Thăng
Long (Hà Nội ngày nay) xin cưới Công Chúa, nhưng nhiều người trong triều không
tán thành.
Năm Bính Ngọ (1306), để làm sính lễ xin
cưới Huyền Trân, Chế Mân cắt châu Ô và châu Rí (cũng gọi Lý) dâng cho vua Trần.
Hai châu này trải dài từ đèo Hải Vân (Thừa Thiên) đến phía bắc Quảng Trị ngày
nay. Ngọn đèo vì thế trở thành biên giới giữa hai nước Việt và Chiêm.
Bấy giờ vua Trần Anh Tông mới thuận gả
em gái cho vua Chiêm. Tháng 6 năm Bính Ngọ (1306) Công Chúa Huyền Trân trở
thành vợ Chế Mân, và bà có tên mới là Paramecvari.
Có tài liệu cho biết trước đó vua Chế Mân đã có chánh thất là Hoàng Hậu Tapasi,
người Java (Nam Dương, tức Indonesia ngày nay).
Năm Đinh Mùi (1307) vua Trần Anh Tông tiếp
nhận châu Ô và châu Rí, đổi tên là châu Thuận và châu Hóa, rồi bổ quan vào quan
cai trị.
Công Chúa Huyền Trân làm vợ Chế Mân, sinh
được một con trai. Vua Chế Mân băng vào năm 1307.
Vừa biết tin vua Chiêm qua đời, vua Trần
Anh Tông liền sai Trần Khắc Chung (?-1330) vào nước Chiêm viếng tang, rồi lập mưu
đưa bà Huyền Trân trở về nước bằng đường biển. Mãi đến tháng 8 năm Mậu Thân
(1308), bà Huyền Trân mới về tới Thăng Long.
Năm Kỷ Dậu (1309), tuân theo di mệnh của
Thái Thượng Hoàng Trần Nhân Tông, bà Huyền Trân quy y ở ngôi chùa trên núi Trâu
(nay thuộc Bắc Ninh), pháp danh là Hương Tràng. Một thị nữ cũng quy y để ở cạnh
bà.
Cuối năm Tân Hợi (1311), cùng với thị nữ
đã quy y, bà Hương Tràng đến làng Hổ Sơn, huyện Thiên Bản (nay thuộc Nam Định),
lập am tu dưới chân núi Hổ. Về sau, am này trở thành chùa Nộm Sơn, còn gọi
Quảng Nghiêm Tự.
Năm Canh Thìn (1340), bà Hương Tràng trở
về cõi Phật vào ngày Vía Trời (mùng 9 tháng Giêng), được dân chúng địa phương lập
đền thờ cạnh chùa Nộm Sơn.
Ngày bà quy thiên trở thành lễ hội hàng
năm tại đền thờ Công Chúa Huyền Trân (số 151 đường Thiên Thai, phường An Tây,
thành phố Huế). Đền này cất trên khu đất rộng hơn 28 hecta, rợp bóng cây xanh,
dưới chân núi Ngũ Phong, cách thành phố Huế chừng bảy cây số về hướng Tây.
Trong đền có pho tượng Công Chúa Huyền Trân ngồi trên ngai. Tượng đồng cao
2,37m, là tác phẩm của các nghệ nhân ở phường Đúc, thành phố Huế.
Tương truyền, dọc đường thiên lý từ kinh
thành Thăng Long (Hà Nội) xuôi về phương nam để vào nước Chiêm, Công Chúa Huyền
Trân đã chạnh lòng mà sáng tác bài hát Nước
Non Ngàn Dặm theo điệu Nam Bình:
Nước non ngàn
dặm ra đi.
Mối tình chi!
Mượn màu son
phấn
Xót thay vì,
Đương độ xuân
thì.
Số lao đao hay
là nợ duyên gì?
Má hồng da
tuyết,
Cũng liều như
hoa tàn trăng khuyết,
Vàng lộn theo
chì.
Khúc ly ca, sao
còn mường tượng nghe gì.
Thấy chim hồng nhạn bay đi.
Tình lai láng,
Hướng dương hoa quỳ.
Như chuyện mà như nguyện,
Đặng vài phân,
Vì lợi cho dân,
Tình đem lại mà cân,
Đắng cay muôn phần.
Ngót sáu trăm
năm mươi năm sau, câu mở đầu bài hát nói trên (Nước non ngàn dặm ra đi) đã được nhạc sĩ Phạm Duy (1921-2013) nhắc
lại trong trường ca Con Đường Cái Quan
gồm mười chín đoản khúc, với phần đầu được sáng tác ở Paris năm 1954 rồi bỏ dở.
Về sau, ông soạn tiếp ở Sài Gòn và hoàn tất năm 1960.
Ứng với ba miền
đất nước, trường ca ấy chia làm ba phần, nói về cuộc lữ hành của một viễn
khách, bắt đầu từ ải Nam Quan xuôi về phương nam, đi cho tới mũi Cà Mau. Trong phần
thứ hai, khi qua miền Trung, trường ca gồm có sáu đoản khúc; riêng đoản khúc thứ
tư có nhan đề Nước Non Ngàn Dặm Ra Đi,
với lời hát trữ tình như sau:
Nước non ngàn
dặm ra đi
Nước non ngàn
dặm ra đi
Dù đường thiên
lý xa vời
Dù tình cố lý
chơi vơi
Cũng không dài
bằng lòng thương mến người.
Bước đi vào lòng
muôn dân
Bước đi vào lòng
muôn dân
Bằng hồn trinh
nữ mơ màng
Bằng tình say
đắm ơi chàng
Ước nuôi dần hòa
bình trong ái ân.
Nhưng ánh tháp
vàng
Cây quế giữa
rừng
Chỉ một mùa tang
là hương là sắc tàn.
Tàn cả tình yêu
Vì hận còn gieo
Đất nước cháy
theo với ngọn lửa thiêu.
Mới hay tình nhẹ
như tơ
Mới hay tình nhẹ
như tơ
Mộng ngoài biên
giới mơ hồ
Chẳng ngăn được
sóng vỡ bờ
Với đêm mờ hồn
về trên tháp ma.
*
Chánh thức ra đời ở miền nam Việt Nam năm Bính Dần
(1926), đạo Cao Đài thường được giới tôn giáo học gọi là tôn giáo bản địa (indigenous) hay tôn giáo nội sinh (endogenous). Một trong nhiều đặc điểm của
tôn giáo này là thông qua cơ bút trong các đàn cầu cơ (spirits-evoking seances), anh linh nhiều vị anh thư, hào kiệt, danh
thần, danh nhân của dân tộc Việt Nam đã trở lại trần gian dạy đạo, chẳng hạn: Đức
Vạn Hạnh Thiền Sư, Đức Thánh Petrus Trương Vĩnh Ký, Đức Thánh Hồ Biểu Chánh,([4]) v.v... Và Đức Huyền Trân Công Chúa
cũng là một trong những trường hợp như vậy.
Hội Thánh Cao Đài Tiên Thiên có giáo sở trung ương là Tòa
Thánh Châu Minh ở xã Tiên Thủy, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre. Một trong nhiều
thánh sở của Hội Thánh này là thánh tịnh Ngọc Linh đặt tại xã Hiệp Phước, huyện
Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.
Trong những năm 50 thế kỷ trước, thánh tịnh Ngọc Linh có
lập nhiều đàn cơ. Đặc biệt, vào năm 1959 thánh tịnh này được Đức Mẹ (Diêu Trì
Kim Mẫu Vô Cực Từ Tôn) phái nhiều Đấng thiêng liêng giáng cơ truyền dạy Minh Thiện Chơn Kinh, gồm hai mươi bốn
bài, chủ yếu dạy phụ nữ tu hành theo pháp môn Cao Đài.
Đầu tháng 6-2015, Minh
Thiện Chơn Kinh (dày 112 trang) được thánh tịnh Ngọc Linh kết hợp với Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo liên
kết cùng nhà xuất bản Tôn Giáo (Hà Nội) in năm ngàn bản để kính biếu bổn đạo và
những vị quan tâm tìm hiểu tôn giáo Cao Đài.
Trong kinh này, bài thứ mười một (tr. 50-53) có nhan đề Kỉnh Phu Tử (Đệ III Hạnh) do Đức Huyền Trân Công Chúa giáng cơ dạy vào
giờ Tý, ngày 23-6 Kỷ Hợi (Thứ Ba 28-7-1959).
* Mở đầu, Đức Huyền Trân Công Chúa ban cho bài thơ thất
ngôn bát cú như sau :
Thâm thu phong
võ dạ thê thê
Sầu ký thu phong
độc tự đề
Kham thán man vương thương hải cuộc
Cánh lân vi diệu thái thương đê
Thao thao cận thủy hoàng lưu thủy
Hạo hạo băng luân khước lạc tây
Nhứt vọng Trường An hoàn dục tiếu
Hà thời nhựt đán
khởi văn kê?
Bài thơ có nghĩa (Sđd., tr. 50-51):
Đêm thu
sâu thẳm, cơn gió thổi thê lương.
Nỗi sầu
gởi theo cơn gió thu, tự mình đề thơ.
Cam chịu
và đau xót trước cảnh đời đổi thay mà phải lấy vua mọi [Chế Mân].
Càng
thêm đau lòng, cúi đầu đứt ruột.
Con sông
gần đấy nước tuôn ồ ạt.
Lãnh đạm
chảy cuồn cuộn về hướng tây.
Vọng về
Trường An [Thăng Long], ta
mong ngày trở lại nở nụ cười.
Ngày nào, sáng
sớm nghe tiếng gà gáy?
* Tiếp theo đó, Đức Huyền Trân Công Chúa xưng danh và
nhắc phớt qua sự kiện lịch sử khi Ngài còn ở dương trần. Ngài dạy như sau:
HUYỀN TRÂN CÔNG CHÚA
Mừng chư hiền đệ
muội! Hôm nay Ta thừa lịnh Đức Mẫu Hoàng [Diêu Trì Kim
Mẫu] lâm đàn. Than ôi! Có lẽ chư hiền đệ
muội cũng có biết qua lịch sử Huyền Trân Công Chúa, một vì thiên kim tiểu thơ
nhành vàng lá ngọc, nhưng đã vì quốc gia dân tộc mà phải hy sinh. Phụ vương Ta
vì châu Ô, châu Lý mà gả Ta cho vua Hời [Chiêm Thành]. Tuy thế, nhưng mỗi việc Ta đều nghĩ rằng do mạng Trời định đoạt,
thành thử có gá nghĩa với một vị quốc vương Hời Mọi chăng nữa, nhưng Ta cũng
gìn tròn bổn phận một người vợ sửa túi nâng khăn. Trước hết, Ta vì quốc gia dân
tộc Việt Nam, đem thân ngàn vàng đổi châu Ô, châu Lý mà tồn tại đến ngày nay.
* Như nhan đề (Kỉnh
Phu Tử) đã nêu, Đức Huyền Trân dạy phụ nữ trau dồi đức hạnh thứ ba là kính
trọng chồng. Ngài bảo (Sđd., tr.
52-53):
Hôm nay
Ta thừa lịnh Mẹ xuống để tả kinh:
KỈNH PHU TỬ - ĐỆ TAM HẠNH
TRƯỜNG
THIÊN
Khuôn trinh là phận phải chìu lang quân [chồng].
Vô vi trong lễ còn răn,
Cang thường sửa túi nâng
khăn dám dời [thay đổi].
Nếu chồng lêu lổng ăn
chơi,
Nhỏ to ta liệu lấy lời
gián can.
Ở ăn vào kỉnh ra nhường,
An phần chớ ngại sang hèn,
Quý hồ hòa thuận, chê khen mặc người.
Lỡ khi chồng có quá lời,
Nín thinh, khuyên chớ đem lời trả
treo.
Chồng sang cũng tốt, chồng nghèo cũng
cam.
Mẹ cha đã định sắt cầm,
Với người gá nghĩa trăm năm đến già.
Hòa nhau
cơ nghiệp đạo nhà mới nên.
Chớ vì
phận bạc đồng tiền,
Chủ trương nắm
giữ gia đình,
Khuyên chung phận gái giữ mình đừng phai.
*
Tôn chỉ của đạo Cao Đài là Tam Giáo quy nguyên, Ngũ Chi phục nhất. Tôn chỉ này có nghĩa: Ba nền
đạo Nho, Lão, Phật trở về nguồn; năm nhánh (Nhân Đạo, Thần Đạo, Thánh Đạo, Tiên
Đạo, và Phật Đạo) trở về một. Nguồn (nguyên) hay một (nhất) là chỗ từ đó mọi tôn
giáo đã phát sinh, tức là Đạo, là Thượng Đế (Chúa Trời). Chính vì từ cùng một
chỗ mà sinh ra nên các tôn giáo (vạn giáo) trên thế gian tuy có dị biệt do không
gian và thời gian hình thành, phát triển, nhưng chung quy vẫn có những chỗ tương
đồng. Bởi vậy đạo Cao Đài chủ trương Vạn
giáo nhất lý để loại trừ thói kỳ thị tôn giáo, phân biệt tín ngưỡng.
Trở lại với khía cạnh Thần Đạo trong Ngũ Chi. Việc các
danh nhân dân tộc trong lịch sử nước Việt ngày nay được trở lại với con cháu Hồng
Lạc qua cơ bút (phương tiện thông công của đạo Cao Đài) có thể xem là khía cạnh
Thần Đạo trong tôn giáo Cao Đài. Dĩ nhiên, Thần Đạo trong Cao Đài hoàn toàn không
phải là Shinto / Shintoism, tôn giáo cổ
truyền hay quốc giáo của dân tộc Phù Tang (Nhật), mà sách vở tiếng Việt quen gọi
là Thần Đạo.
HUỆ KHẢI
Nhiêu Lộc, 13-6-2015
([6]) Mạnh Quang
sống đời Hậu Hán, nết na đoan trang, đến ba mươi vẫn còn kén chồng. Nàng chỉ
mong lấy được Lương Hồng, bằng không thì ở vậy suốt đời. Lương Hồng sống cùng
địa phương, nhà nghèo nhưng đạo đức, nghe tin đồn mới tìm đến xin cưới Mạnh
Quang. Mạnh Quang bằng lòng và ăn mặc lộng lẫy sang trọng lúc vu quy. Lương
Hồng phật lòng, nói chỉ muốn lấy vợ áo vải quần gai, cùng chung sống làm ăn,
chứ không lấy người đài các. Mạnh Quang bèn thay áo vải quần gai (bố kinh quần thoa), sánh duyên với Lương
Hồng, cùng làm thuê làm mướn để mưu sinh. Mạnh Quang kính trọng chồng, khi mời
cơm thì nâng mâm cơm ngang mày (cử án tề
mi). Do điển tích này, có điển tích bố
quần kinh thoa (hay bố kinh) và cử án tề mi. Ca dao: Mạnh Quang khác đấng nữ nhi / Làm thuê ngày
tháng nuôi nhau vợ chồng.