Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim xuất
bản lần đầu năm 1920 (lời Tựa của tác giả đề tại Hà Nội, tháng 10-1919) là bộ
thông sử đầu tiên của Việt Nam soạn theo phương pháp mới và viết bằng chữ quốc
ngữ, nhưng lại tương đối đầy đủ và có thể được coi là một bộ tín sử có phong
cách trình bày ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu dễ nhớ, sinh động và hấp dẫn nhất từ
trước đến nay.
Với khối lượng dày gần 600 trang, nội dung sách trình bày một
cách sơ lược và có tính hệ thống, nhưng không bỏ sót những chi tiết chủ yếu,
toàn bộ lịch sử nước Việt từ thời thượng cổ, kể từ họ Hồng Bàng huyền sử
(2879-258 trước Công Nguyên), cho đến thời Pháp thuộc, dừng lại ở những năm đầu
thế kỷ Hai Mươi (1902), với một đoạn ngắn chừng hơn một trang gần cuối sách
được “tạm” viết thêm vào khi tác giả sửa chữa bổ sung cho ấn bản lần thứ ba
(1949), trong đó chỉ nhắc lướt qua một số sự kiện lịch sử nổi bật liên quan các
phong trào kháng Pháp của người Việt cho đến khi vua Bảo Đại thoái vị (1945)
trao quyền lại cho chính phủ Việt Minh ([1]).
Thật ra, đây chỉ là một công trình có tính tập đại thành đã
được Trần Trọng Kim gom góp, phát triển lên từ những công trình nhỏ hơn của
chính ông trước đó, tức những bài Nam sử bậc tiểu học do ông phụ trách biên
soạn cho mục Học Khoa đăng trên Đông
Dương Tạp Chí (từ số 43, tháng 3-1914), và quyển Sơ Học An Nam Sử Lược ([2])
xuất bản năm 1917.
Trước nữa, Việt Nam cũng đã từng có mấy bộ sử chép theo lối
cũ biên niên bằng chữ Hán của các triều Lê, Nguyễn, cũng như vài sách tiếng
Pháp của Trương Vĩnh Ký (Cours d’Histoire
Annamite, Sài Gòn, 1875), của Schreiner (Abrégé de l’Histoire d’Annam, Sài Gòn, 1906)([3])
… mà Trần Trọng Kim có dẫn dụng tham khảo, nhưng tất cả đều không còn
thích dụng hợp thời, nên ngay từ khi ra đời, Việt Nam Sử Lược đã được quần chúng đón nhận nhiệt liệt, và hầu như
chưa bị búa rìu gì dữ dội từ phía những học giả khó tính nhất (như Phan Khôi,
Nguyễn Văn Tố…), tuy rằng lẽ tất nhiên nó chưa phải là một bộ sử hoàn hảo.
Cái mới không chỉ ở chỗ lần đầu tiên có bộ thông sử khá đầy
đủ viết bằng tiếng Việt ([4]),
mà điều quan trọng hơn nữa là lần đầu tiên tác giả đã tham khảo lối viết sử
tiến bộ có tính khoa học hơn của phương Tây, thoát ly ra khỏi lối chép biên
niên truyền thống của Trung Quốc vốn chỉ nêu lên từng sự kiện riêng lẻ, rời
rạc, từ đó biết chia lịch sử Việt Nam ra làm năm thời kỳ theo từng đặc điểm
tương đối chung nhất của mỗi thời kỳ để trình bày các diễn biến lịch sử thành
một câu chuyện liên tục và hấp dẫn, cho thấy được mối liên lạc nhân quả, biện
chứng giữa các sự kiện xảy ra theo dòng thời gian. Ngoài ra, khác với lối chép
sử của các sử thần thời phong kiến, thường chỉ chú ý ghi chép hành vi, hoạt
động của vua chúa, hoàng hậu và giới quan lại, gắn với những hoạt động tranh bá
đồ vương, coi sử của quốc gia đồng nghĩa với sử của tầng lớp vua chúa quý tộc,
mà vắng bóng hẳn bộ mặt sinh hoạt của người dân, Việt Nam Sử Lược trái lại đã bắt đầu chú ý đưa vào thật nhiều những
sự kiện liên quan đời sống thực tế người dân, như việc học hành thi cử, tiền
tệ, đo lường, thuế má, luật pháp, xã hội, phong tục, tín ngưỡng…
Trước khi đi vào cụ thể từng thời kỳ lịch sử, tác giả đã có
một phần riêng ở đầu sách trình bày tổng quát về NƯỚC VIỆT NAM (Quốc hiệu, Vị
trí và diện tích, Địa thế, Chủng loại, Gốc tích, Người Việt Nam, Sự mở mang bờ
cõi, Lịch sử Việt Nam), tương đương với một bài dẫn nhập ngắn gọn, giúp người
đọc nắm bắt nhanh những kiến thức căn bản để từ đó thông tỏ mối giềng lịch sử
của dân tộc một cách dễ dàng hơn.
Trong quá trình mô tả lịch sử, ở những chỗ xét thấy cần
thiết, tác giả còn chen vào cung cấp những kiến thức cần biết để giúp hiểu rõ
mối liên lạc nhân quả giữa các sự kiện lịch sử đã diễn ra, như khi cần trình
bày bối cảnh chính trị - văn hóa - xã hội như thế nào của nước Tàu, nước
Chiêm Thành, nước Tiêm La, nước Cao Miên, nước Pháp… mà có quan hệ với nước ta
(chẳng hạn, ở quyển I, chương III: “Xã hội nước Tàu về đời Tam Đại và đời nhà
Tần”, và chương VI: Sự kết quả của thời đại Bắc thuộc; ở quyển III, chương IV,
đoạn nói về việc đánh nhà Tống, trước hết cũng nói qua việc cải tổ chính trị
nước Tàu của Vương An Thạch…). Đặc biệt ở quyển V (Cận kim thời đại), chương VI
là một chương quan trọng, cho biết “Chế độ và tình thế nước Việt Nam đến cuối
đời Tự Đức”, giúp giải thích được nguyên nhân của thảm trạng mất nước vào tay
người Pháp.
Cuối mỗi triều đại vua chúa hay kết thúc
một chương sách, tác giả hầu như luôn không quên đưa vào một đoạn văn tóm tắt ý
chính, đồng thời xen vào những lời nhận xét đánh giá, bình luận riêng, để giải
thích nguyên nhân gốc rễ các hiện tượng, trên cơ sở phân tích hợp tình lý những
yếu tố ảnh hưởng thuộc về chính trị, nhân tâm, lực lượng của nhiều biến cố quan
trọng, như cuộc đại thắng quân Nguyên của nhà Trần, cuộc thất bại của nhà Hồ,
việc nhà Hậu Lê mất ngôi vua...
Về phương pháp ghi niên đại, có thể nói Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim là một mẫu mực đầu tiên ở nước
ta trong việc thể hiện ngày, tháng, năm một cách khoa học, rõ ràng nhất, bằng
cách ghi kết hợp cả ba yếu tố năm âm lịch, năm dương lịch với niên hiệu các
vua. Việc chua thêm nguyên văn chữ Hán sau những từ Hán Việt về tên người, tên
đất, tên chức quan… cũng cần thiết, vừa đảm bảo tính chính xác, vừa giúp các
nhà khảo cứu dễ dàng kiểm chứng, so sánh mỗi khi cần sử dụng đến những tài liệu
cũ chữ Hán.
Đầu quyển IV (Tự chủ thời đại), khi chuẩn bị mô tả thời kỳ
Nam Bắc phân tranh (1533-1788) trong đó trên có vua Hậu Lê dưới có chúa Trịnh
ngoài Bắc và chúa Nguyễn trong Nam, cục diện diễn ra đan xen nhau cực kỳ phức
tạp, nếu tác giả không giúp bằng cách dành riêng cả chương I gọi là “Lịch triều
lược kỷ” (Ghi sơ lược qua các triều vua, chúa) dưới hình thức một bảng liệt kê
so sánh rất rõ ràng mạch lạc mối tương quan giữa các vua và các chúa, thì người
đọc thật không tài nào nắm bắt được diễn biến các sự kiện lịch sử. Các bảng Thế
Phổ chen vào rải rác theo từng triều đại vua chúa, sáu tờ bản đồ, cũng như bảng
Niên Biểu lập ở cuối sách, đều như những bài “toát yếu” giúp người sử dụng sách
có thể thu tóm và ôn tập kiến thức để nhớ được một cách dễ dàng hơn những sự
kiện hoặc nhân vật lịch sử quan trọng… Cho nên có thể nói, về phương diện mô tả
lịch sử một cách vừa khoa học vừa tài tình và hấp dẫn, cho đến nay vẫn chưa
thấy có công trình mới nào tương tự mà có thể so sánh được với Việt Nam Sử Lược.
Về quan điểm chép sử và bình sử, Trần Trọng Kim đã giữ được
thái độ gần như hoàn toàn khách quan trung thực, như ông đã bày tỏ trong lời
Tựa ở đầu sách. Ông không đứng hẳn về phe nào, thậm chí không phân biệt
địch-ta, nhờ vậy luôn khen-chê đúng mực, nói lên được tiếng nói của lương tri
nhà sử học, và có can đảm xét lại một số vấn đề “nhạy cảm” vào lúc tác phẩm ra
đời (năm 1920), như khi xét lại để thừa nhận tính chính đáng (chính thống) của
nhà Tây Sơn vốn xưa nay vẫn bị các sử gia triều Nguyễn coi là “ngụy Tây”. Chỗ
này, ông phải tìm cách khéo léo giảng rõ để biện bạch: “Thời đại nào nhân vật ấy và tư tưởng ấy, soạn giả cứ bình tĩnh cố theo
cho đúng sự thực. Thỉnh thoảng có một đôi nơi soạn giả có đem ý kiến riêng của
mình mà bàn với độc giả, thí dụ như chỗ bàn về danh hiệu nhà Tây Sơn thì thiết
tưởng rằng sử là của chung cả quốc dân, chứ không phải riêng cho một nhà một họ
nào, cho nên mới phải lấy công lý mà xét đoán mọi việc và không vị tình riêng
mà để phạm đến lẽ công bằng vậy.” (Trích lời Tựa.)
Mỗi khi có dịp, ông còn nói rõ hơn: “Cái nghĩa vụ làm sử, tưởng nên kê cứu cho tường tận, rồi cứ sự thực mà
nói, chứ không nên lấy lòng yêu ghét của mình mà xét đoán. Dẫu người mình ghét
mà có làm điều phải, mình cũng phải khen; người mình yêu mà có làm điều trái,
mình cũng phải chê.” (Ấn bản lần 5, tr. 427.)
Ở đoạn mở đầu sách, khi mô tả đặc điểm người Việt Nam , Trần Trọng
Kim đã không ngần ngại nêu lên cả những tính tốt lẫn nết xấu. Đối với vài triều
đại làm việc gian ác, thoán nghịch, nếu nhân vật có khía cạnh gì hay thì ông
vẫn khen, như công nhận Trần Thủ Độ là người tài năng, Hồ Quý Ly không phải
hạng người tầm thường; khen Mạc Ngọc Liễn đã trối lại một lời nói thật trung
hậu; nhận định về tính cách bạc nhược của tập thể triều đình Lê Chiêu Thống; nêu
cả mặt tốt lẫn mặt rất xấu của vua Minh Mạng, bình phẩm thẳng thắn cách xử tội
tàn ác của vua đối với một đứa trẻ và hai người ngoại quốc; chê Tôn Thất Thuyết
gian độc hèn nhát nhưng lại khen hai người con trai của ông Thuyết (Tôn Thất
Thiệp và Tôn Thất Đạm) “thật là bậc thiếu
niên anh hùng, có thể che được cái xấu cho cha”…
Đối với vài ông vua có vai trò đặc biệt quan trọng trong lịch
sử và có mệnh hệ đến tiền đồ dân tộc, tác giả luôn có thêm một tiểu mục mở đầu
chương sách để xét về đức độ của họ (như các vua Trần Anh Tông, Quang Trung,
Thánh Tổ [Minh Mạng], Hiến Tổ [Thiệu Trị], Dực Tông [Tự Đức]), hẳn vì ông đã có
sẵn một quan niệm hết sức rõ ràng dứt khoát: Làm vua hay làm nguyên thủ quốc
gia mà kém đức thì chỉ có hại dân hại nước!
Thái độ chép sử khách quan như trên đã thể hiện phần nào qua
việc sử dụng ngôn từ lịch sự, nhã nhặn của Trần Trọng Kim, trong mọi tình
huống, và dường như lúc nào ông cũng nói năng một cách ôn tồn, trầm tĩnh, thậm
chí vô cảm như một kẻ hoàn toàn ngoài cuộc. Chẳng hạn, đối với các nhà vua, thì
ông luôn gọi kính trọng bằng “ngài”, cho dù vua đó là một kẻ rất hoang dâm vô
độ như Lê Tương Dực (tuy nhiên đối với kẻ quá bạo ngược như Lê Long Đĩnh / Ngọa
Triều thì ông đã cố tránh chữ “ngài” và chỉ gọi bằng tên Long Đĩnh). Tương tự
như vậy, khi kể đến những trận giao chiến giữa lực lượng thực dân Pháp với quan
quân kháng chiến người Việt, dường như ông cũng đứng ở vị trí bàng quan mà kể,
gọi các sĩ quan Pháp bằng tên chức vụ (như Đại Tá X, Trung Tướng Y…), chứ không
bao giờ dùng những từ ngữ nặng nề (như “tên” đại tá, “bọn” thực dân Pháp [[5]]…).
Có lẽ chính thái độ “trung dung” kiểu đứng kẽ giữa này là một trong những
nguyên nhân gây ngộ nhận khiến có một số người đã lên án Trần Trọng Kim là một
học giả tài giỏi nhưng bạc nhược và phản động, dẫn đến sách của ông có thời
gian bị cấm tuyệt lưu hành ở miền Bắc. Tuy nhiên, nếu đọc kỹ Việt Nam Sử Lược với một chút tinh tế,
ai ai cũng sẽ nhận ra ông đã luôn biểu lộ tình cảm một cách kín đáo tế nhị, và
đôi lúc nồng nhiệt, thiết tha, mỗi khi ngợi khen hoặc tỏ ý cảm khái, khâm phục
đối với một vị quan thanh liêm biết thương dân (như Nguyễn Tri Phương, Phan
Thanh Giản…), những con người trung dũng kháng Pháp (như Lê Trực, Phan Đình
Phùng…), hay trước cái chết của một chiến sĩ hết lòng vì nước. Như đoạn tả Tôn
Thất Thiệp hy sinh vì hết lòng bảo vệ vua Hàm Nghi đang chống Pháp, Tôn Thất
Đạm thắt cổ tự tử vì không bảo vệ được vua, để cho vua bị bắt, thật hết sức cảm
động.
Xét cho cùng, thái độ “trung dung”, “trung lập” nhưng cận
nhân tình kiểu Trần Trọng Kim cũng là một loại thái độ khách quan trong việc mô
tả lịch sử bằng ngôn ngữ khoa học trung tính, ở đó không có sự thiên lệch bên
nào ngoài sự thật lịch sử khách quan, nên không cần dùng tới những lời lẽ mạt
sát nặng nề hay tâng bốc quá đáng đối với bất kỳ ai đã trở thành nhân vật của
quá khứ, dù người đó thuộc phe nào chăng nữa.
Ở một mặt khác, người ta còn có thể thấy Trần Trọng Kim viết Việt Nam Sử Lược với một tâm ý và chủ
đích không tầm thường, mà đã trút hết tâm huyết vào trong công trình biên khảo
của mình. Điều này không chỉ đã được nêu rõ một phần khi mở đầu bài Tựa, mà còn
được phát biểu rải rác trong suốt tác phẩm, bằng cách luôn tìm cách kích động
lòng ái quốc và cổ vũ chí độc lập, tự cường của dân tộc, nhưng với tinh thần
xây dựng hòa bình, chủ hòa nhiều hơn chủ chiến. Như trong mấy trang mở đầu, ở
tiểu mục số 8 “Lịch sử Việt Nam”: “Từ khi
người Việt Nam lập thành nước đến giờ, kể hàng mấy nghìn năm, phải người Tàu
cai trị mấy lần, chịu khổ sở biết bao nhiêu phen, thế mà sau lại lập được cái
nền tự chủ, và vẫn giữ được cái tính đặc biệt của giống mình, ấy là đủ tỏ ra
rằng khí lực của người mình không đến nỗi kém hèn cho lắm. Tuy rằng mình chưa
làm được việc gì cho vẻ vang bằng người, nhưng mình còn có thể hy vọng một ngày
kia cũng nên được một nước cường thịnh.
“Vậy ghi chép những cơ
hội gian truân, những sự biến cố của nước mình đã trải qua, và kể những công
việc của người mình làm từ đời nọ qua đời kia, để cho mọi người trong nước đều
biết…”
Ở tiểu mục số 9, “Lòng yêu nước của người Việt Nam ” (thuộc
quyển 5, chương XV), tác giả lại ca ngợi lòng ái quốc, chí quật cường của dân
tộc sau khi dẫn chứng một số cuộc khởi nghĩa, vận động cách mạng trong nước.
Đặc biệt, ở bài TỔNG KẾT cuối sách, tâm huyết và sự lo lắng của ông đối với
tiền đồ dân tộc lại càng thêm rõ nét: “Vận
mệnh nước Việt Nam
hiện nay còn ở trong tay người Pháp, sự hay dở tương lai chưa biết ra thế nào.
Song người bản quốc phải biết rằng phàm sự sinh tồn tiến hóa của một nước, là ở
cái chí nguyện, sự nhẫn nại và sự cố gắng của người trong nước. Vậy ta phải hết
sức mà học tập, mà giữ cái tâm trí cho bền vững, thì chắc tương lai còn có
nhiều hy vọng. Nước Việt Nam ta đã có cái văn hóa chẳng thua kém gì ai, và lại
có một lịch sử vẻ vang, nhưng chỉ vì sự lầm lỗi một lúc mà phải chịu cái cảnh
suy hèn. Nếu ta biết lợi dụng cái tiềm lực cố hữu và cái tính thông minh hiếu
học của ta để theo thời mà tiến hóa, thì sao ta lại không có ngày nối được cái
chí của ông cha mà dệt thêm một đoạn lịch sử mỹ lệ hơn trước?
“Có một điều thiết tưởng
nên nhắc lại là ta nên giữ lấy những điều hay của ta vẫn có, bỏ những điều hủ
bại đi, và bắt chước lấy những điều hay của người, để gây lấy cái nhân cách đặc
biệt của dân tộc ta và cùng tiến với người mà không lẫn với người. Muốn được
như thế, ta phải biết phân biệt cái hay cái dở, không ham muốn những cái huyền
hão bề ngoài, rồi đồng tâm hiệp lực với nhau mà làm mọi việc cho thành cái hiệu
quả mỹ mãn.
“Nước nào cũng có lúc bĩ
lúc thái, đó là cái công lệ tuần hoàn của Tạo Hóa trong thế gian. Tự xưa chưa
thấy có nước nào cứ thịnh mãi hay cứ suy mãi. Khi lâm vào cảnh bĩ mà người
trong nước cứ vững lòng giữ được cái nghị lực để sinh tồn và tiến hóa, thì rồi
thế nào cũng có ngày chấn khởi lên được. Vậy chúng ta đây đều là một dòng dõi
nhà Hồng Lạc, nếu ta biết kiên tâm bền chí, thì há lại không có một ngày ta có
cái địa vị vẻ vang với thiên hạ hay sao? Sự ước ao mong mỏi như thế là cái
nghĩa vụ chung cả chủng loại Việt Nam ta vậy.”
Về mặt nhược điểm của Việt
Nam Sử Lược thì trước nay một số nhà nghiên cứu - phê bình ([6])
cũng đã vạch ra khá rõ rồi. Đại khái: Cách phân kỳ lịch sử vài chỗ còn nhập
nhằng chưa hợp lý (như Triều Nguyễn xếp vào Cận kim thời đại, trong khi vẫn có
thể xếp vào Tự chủ thời đại trước đó…). Tài liệu tham khảo để biên soạn chưa
được dồi dào lắm, chủ yếu chỉ sử dụng khoảng trên hai mươi cuốn sách cũ viết
bằng chữ Hán và chữ Pháp, mà thiếu sự khảo sát thực địa các di tích, hiện vật
lịch sử, cũng như chưa có sự phối hợp liên ngành bằng cách chú ý đến những công
trình nghiên cứu về khảo cổ học, cổ tiền học, cổ sinh vật học… Viết về giai
đoạn Hậu Lê, Trịnh Nguyễn phân tranh và Pháp thuộc, tác giả còn ít sử dụng loại
tài liệu báo chí và chưa khai thác đến những tập du ký, hồi ký, tài liệu ghi
chép… vốn khá xác thực, sinh động của một số giáo sĩ thừa sai, doanh nhân, quân
nhân… người châu Âu đã từng có mặt ở Việt Nam vào những năm đầu và giữa thế kỷ
17.
Về lập trường tư tưởng, có người chê Trần Trọng Kim vẫn chưa
thoát ra khỏi những thành kiến triết lý, luân lý Nho Gia về mệnh Trời cũng như
những quan niệm cũ kỹ về sự phân biệt trung nghịch chánh ngụy, và qua ngôn từ
diễn đạt, dường như ông có vẻ hơi vị nể triều Nguyễn và có chút khép nép đối
với người Pháp… Tuy nhiên, mấy lỗi này đều có lý do chính đáng để thông cảm. Về
mệnh Trời, thật khó đưa ra sự phán đoán dứt khoát một quốc gia thịnh hay suy,
còn hay mất… là có tùy thuộc mệnh Trời thật hay không. Còn về thái độ vị nể,
khép nép…, chúng ta ai cũng biết Trần Trọng Kim vốn là công chức ngành giáo dục
ăn lương của Pháp, viết Việt Nam Sử Lược
trong lúc đất nước còn nô lệ với sự tồn tại của chế độ phong kiến nhà Nguyễn,
mà theo quan niệm xưa, cách nay gần trăm năm, dù quyền uy của triều đình Nguyễn
đã sút giảm đi nhiều, ông cũng thuộc thân phận / địa vị thần tử. Sang đến bản
in lần thứ 5 (in xong tháng 3-1954), khi tình thế mới cho phép, Trần Trọng Kim
đã cho sửa một chỗ “Đại Pháp” (tr. 17) thành “Pháp” (bỏ chữ “Đại”); còn những
chỗ khác như “quan Trung Tướng”, “quan Tổng Đốc Toàn Quyền”… thì bỏ hẳn chữ
“quan”, hoặc thay bằng chữ “viên”…, cho thấy cái sự khép nép trước đây cũng chỉ
vì lý do khôn khéo cần thiết, như viết thì phải lách, “một bước tiến hai bước
lùi”, nếu không muốn nói vạn bất đắc dĩ!
Dù sao, một số mặt hạn chế này khác như chúng ta vừa nêu,
cũng đã được tác giả khiêm tốn dự liệu và tự nhận trước trong lời Tựa: “Độc giả cũng nên biết cho rằng bộ sử này là
bộ Sử Lược chỉ cốt ghi chép những
chuyện yếu trọng để hãy tạm giúp cho những người hiếu học có sẵn quyển sách mà
xem cho tiện. Còn như việc làm thành ra bộ sử thật là đích đáng, kê cứu và phê
bình rất tường tận, thì xin để dành cho những bậc tài danh sau này sẽ ra công
mà giúp cho nước ta về việc học sử. Bây giờ ta chưa có áo lụa, ta hãy mặc tạm
áo vải, tuy nó xấu xí nhưng nó có thể làm cho ta đỡ rét.”
Và có lẽ cũng nên nói như nhà nghiên cứu văn học Phạm Thế
Ngũ, “Song phải thành thật mà nhận rằng
về phía chúng ta là người phê bình tác giả, cái áo lụa mà ông cầu chúc cho
chúng ta ấy, cho đến bây giờ ta vẫn chưa có mà mặc.” ([7])
Trong Phê Bình Và Cảo
Luận (Hà Nội: Nxb Nam Ký 1933), nhà phê bình văn học Thiếu Sơn đã nêu lên
một số nhận xét xác đáng cho thấy khái quát cả mặt ưu điểm lẫn khuyết điểm của Việt Nam Sử Lược: “Sử học nước ta vốn còn khuyết điểm nhiều lắm; cái phương pháp khoa học
dùng để tìm kiếm tài liệu đã chưa có, mà cả đến luật lệ nhất định cho sử gia,
cùng cái triết học của lịch sử cũng thiếu nữa. Vậy có phê bình Việt Nam Sử
Lược của ông Trần, ta cũng không nên quá
nghiêm mà trách bị cầu toàn([8]) mới phải. Cái văn cổ kính điềm đạm, lời thuật sáng sủa dồi
dào, cách xếp đặt có trật tự phân minh, ý cai quát được rõ ràng khúc chiết, ấy
là những cái đặc sắc của bộ Việt Nam Sử Lược… Tôi quyết đoán rằng sau ông Trần, sẽ còn có nhiều sử gia hoàn toàn
hơn ông. Song hiện nay tôi mới thấy bộ Việt Nam Sử Lược là hơn hết. Chẳng những là một bộ sách giáo
khoa về lịch sử có giá trị, mà còn là một bộ sử ký của khắp cả những ai muốn rõ
lịch sử nước nhà.” (tr. 34-35).
Trong Nhà Văn Hiện Đại (Hà Nội, 1942), Vũ Ngọc Phan khi
đánh giá Việt Nam Sử Lược cũng có
những ý kiến tương tự như trên và cho rằng “tuy
gọi là ‘lược’ nhưng cũng đủ được mọi việc trong thời kỳ đã qua của nước nhà và
đáng coi là một bộ sách giá trị… Như vậy, bộ Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim là
một bộ sử ký đầu tiên của nước ta viết bằng quốc văn có thể tạm gọi là đầy đủ.”
(Sài Gòn: Nxb Thăng Long, 1960, tr. 209-211.)
*
Sách đạt được tin cậy của hầu hết học giả và quần chúng trong
nước, được tái bản rất nhiều lần, nhưng số phận cũng có lúc long đong, vì sau
Hiệp Định Genève 1954, đất nước tạm thời chia đôi ở vĩ tuyến 17, do một số vấn
đề khác biệt về quan điểm đánh giá, Việt
Nam Sử Lược cùng tác giả của nó đã bị phê phán rất nặng, coi là sách phản
động, đồng thời cấm lưu hành ở miền Bắc, và chỉ còn một vài người cất giấu được
để đọc lén. Trong khi đó tại miền Nam giai đoạn 1954-1975, sách được
lưu hành thoải mái và được dùng làm căn cứ chủ yếu để biên soạn sách giáo khoa
lịch sử cho học sinh các cấp. Sau năm 1975, tuy dần dần được nhìn nhận lại một
cách khách quan hơn nhưng mãi đến năm 1999, tức hai mươi bốn năm sau ngày đất
nước thống nhất, Việt Nam Sử Lược mới
được tái bản, nhưng cũng lại do vấn đề quan điểm chính trị này khác, có lúc nó
đã bị biên tập cắt bỏ vài chương và vài đoạn rải rác ([9]).
Được biết, Việt Nam Sử
Lược cũng đã từng có bản dịch tiếng Trung Quốc của dịch giả Ðái Khả Lai
(Dai Kelai), với tên sách Yuenan Tong shi (Việt Nam Thông Sử, Bắc Kinh, Thương Vụ Ấn Thư Quán,
1992).
Dưới
đây xin liệt kê tất cả những ấn bản tiếng Việt trong những lần in khác nhau của
Việt Nam Sử Lược, trước và sau mốc
lịch sử 1975, kèm theo ghi chú vắn tắt về những chỗ khác biệt do có sự sửa chữa
bổ sung của chính tác giả trước khi qua đời (tháng 12-1953), hoặc của nhà xuất
bản sau khi tác giả qua đời ([10]).
Đối chiếu tiểu sử và năm mất của Trần Trọng Kim với ngày in xong của các lần
xuất bản, chúng ta ngày nay có thể khẳng định, tác giả chỉ tham gia sửa chữa,
bổ sung sách từ bản in lần thứ ba, thứ tư và thứ năm. Một vài đoạn sửa chữa
hoặc chú thích nhỏ từ lần in thứ sáu (1958) đều do Nxb Tân Việt thêm vào, sau
khi tác giả đã qua đời trước đó năm năm tại Đà Lạt.
Lần
xb
|
Nhà xuất
bản
Nơi, năm xb
|
Đặc điểm /
Sự khác biệt
|
1
|
Trung Bắc Tân Văn,
Hà Nội 1920
|
Chia làm hai tập (Tập
I: 225 trang; Tập II: 324 trang). Có lời tác giả đề tặng quan Tổng đốc Thân
Trọng Huề ([11]).
|
2
|
Imprimerie
Vĩnh&Thành,
Hà Nội 1926
|
In cùng bản kẽm của lần
1. Có lời tác giả đề tặng quan Tổng Đốc Thân Trọng Huề, như ấn bản lần 1.
|
3
|
Tân Việt, Hà Nội. In và
phát hành tại Sài Gòn 7-1949
|
In gộp thành một quyển,
588 trang, với khá nhiều đoạn sửa chữa, bổ sung. Chữ Hán có nhiều lỗi in.
|
4
|
Tân Việt, Hà Nội. In và
phát hành tại Sài Gòn 2-1951
|
In gộp thành một quyển,
588 trang. Hai chữ “Đại Pháp” ở tr. 17 sửa thành “Pháp”. Quan Tổng Đốc Toàn Quyền
sửa thành “Viên” Tổng Đốc… Bắc Kỳ, Trung Kỳ sửa thành Bắc Việt, Trung Việt.
Vài chỗ “An Nam” sửa thành “Việt
|
5
|
Tân Việt,
Sài Gòn 3-1954
|
In cùng bản kẽm với lần
4, gồm 588 trang + 4 trang giới thiệu sách. Vài chỗ sửa đổi rất nhỏ ([12]).
|
6
|
Tân Việt,
Sài Gòn 4-1958
|
588 trang. Ở trang 52,
tiểu mục TRIỆU ẨU được Nxb sửa thành BÀ TRIỆU (TRIỆU THỊ TRINH), với dòng chữ
giải thích lý do ở cuối trang. Trang 352, Nxb có thêm hai chú thích nhỏ về
địa danh Thất Kỳ Giang và Tam Phụ. Ở bài TỔNG KẾT (tr. 573), câu “Vận mệnh nước Việt Nam hiện nay còn ở
trong tay người Pháp, sự…”, đã
được Nxb sửa thành: “Mặc dù nước Việt
Nam hiện nay được hoàn toàn độc lập, nhưng…”
|
7
|
Tân Việt,
Sài Gòn 6-1964
|
In cùng bản kẽm lần 6,
gồm 588 trang.
|
8
|
Trung Tâm Học Liệu,
Sài Gòn 1971
|
Chia làm hai quyển,
tổng cộng 682 trang. Không gọi “ 5 quyển” mà gọi “5 phần”: Phần 1; Phần 2… Chiếu
theo bản in lần 7 của Tân Việt, thêm Phụ Lục và Sách Dẫn. Số bản in: 80.000
cuốn.
|
9
|
Văn Hóa
Thông Tin,
Hà Nội 1999
|
620 trang. Cắt bỏ một
số đoạn. Lời Nxb có ghi: “Những chỗ sai
sót so với chính sử hiện nay, chúng tôi xin phép lược bỏ hoặc có chú thích ở
dưới để bạn đọc tiện theo dõi, so sánh.” ([13])
|
10
|
Tổng Hợp TpHCM, TpHCM 2000
|
Chia
làm hai quyển, 576 trang.
|
11
|
Đà Nẵng,
Đà Nẵng 2003
|
Bỏ phần in kèm chữ Hán ([14]).
|
12
|
Tổng Hợp TpHCM, TpHCM 2005
|
576 trang.
|
13
|
Thanh Hóa,
Thanh Hóa 2006
|
603 trang ([15]).
|
14
|
Văn Hóa
Thông Tin,
Hà Nội 2006
|
625 trang.
|
15
|
Văn Hóa
Thông Tin,
Hà Nội 2008
|
625 trang.
|
16
|
Thời Đại,
Hà Nội 2010
|
Không gọi “năm quyển”
mà gọi “năm phần”: Phần 1; Phần 2…, tương tự bản của Trung Tâm Học Liệu.
|
17
|
Khoa Học Xã Hội,
Hà Nội 2011
|
531 trang.
|
18
|
Văn Học,
Hà Nội 2012
|
648 trang.
|
19
|
Thanh Niên,
Hà Nội 2013
|
Chia làm hai quyển.
|
20
|
Văn Học,
Hà Nội 2015
|
Gộp thành một quyển,
dựa đúng theo ấn bản thứ 5 (tháng 3-1954).
|
*
Trần Trọng Kim là người tiên phong cho một số công trình biên
khảo có giá trị lâu dài thuộc nhiều lĩnh vực học thuật khác nhau. Khởi đầu sự
nghiệp trứ tác từ năm 1914 khi phụ trách mục “Học Khoa” trên Đông Dương Tạp
Chí, với loạt bài viết có tính giáo khoa về Nam sử, luân lý và về khoa sư
phạm học, nếu tính đúng và đủ, ngoài Việt
Nam Sử Lược, Trần Trọng Kim còn là tác giả của tất cả những công trình đã
in thành sách, liệt kê theo thứ tự thời gian như sau: Sơ Học Luân Lý (Hà
Nội: Nhà in Trung Bắc Tân Văn, 1914), Sư Phạm Khoa Yếu Lược (Trung Bắc
Tân Văn, 1916), Truyện Thúy Kiều Chú Giải (1925, soạn chung với Bùi
Kỷ), Quốc Văn Giáo Khoa Thư (ba tập: lớp Đồng ấu, lớp Dự bị, và lớp Sơ
đẳng), Luân Lý Giáo Khoa Thư, Sử Ký Giáo Khoa Thư (cả ba loại giáo
khoa thư này xuất bản năm 1926, và đều soạn chung với Nguyễn Văn Ngọc, Đặng
Đình Phúc, Đỗ Thận, do Nam Sơn Nguyễn Văn Thọ vẽ minh họa), 47 Điều Giáo
Hóa Của Nhà Lê (Trung Bắc Tân Văn, 1928, dịch “Lê Triều Giáo Hóa Điều Luật
Tứ Thập Thất Điều” ra tiếng Pháp: Les 47 Articles du Catéchisme Moral de
l’Annam d’Autrefois), Nho Giáo (Trung Bắc Tân Văn, 1930, ba quyển; sau
in gộp lại thành hai quyển, 1932-1933), Việt Thi (sao lục và chú
giải), Phật Lục (Hà Nội: Nxb Lê Thăng, 1940), Phật Giáo (Tân
Việt xuất bản), Vương Dương Minh (1940), Việt Nam Văn Phạm (Hà
Nội: Nxb Lê Thăng, 1941, soạn chung với Phạm Duy Khiêm, Bùi Kỷ), Tiểu Học
Việt Nam Văn Phạm (Tân Việt xuất bản), Phật Giáo Thủa Xưa Và Phật Giáo
Ngày Nay (Tân Việt, 1953; “Lời mở đầu” của tác giả đề tháng 10-1952), Hạnh
Thục Ca (Tân Việt xuất bản), Đường Thi (Tân Việt xuất bản), Lăng
Ca Kinh (Tân Việt, 1964), Một Cơn Gió Bụi (Hồi ký, viết từ xong
1949; Sài Gòn: Nxb Vĩnh Sơn, 1969).
Ngoài những sách đã in chính thức trên đây, Trần Trọng Kim
còn có loạt bài biên khảo dài về Đạo Giáo (Đạo Lão Tử) đăng nhiều kỳ trên Nam
Phong Tạp Chí (từ số 67 năm 1923), chưa xuất bản thành sách. Vũ Trụ
Đại Quan và Thiên Văn Học là hai công trình biên khảo khác nữa
nhưng dường như đang soạn dang dở hoặc chỉ ở dạng bản thảo đã bị thất lạc trong
thời kỳ chiến tranh Việt-Pháp (1946-1954).
Trần Trọng Kim, còn có bút hiệu Lệ Thần, sinh năm 1883 (Quý
Mùi) tại làng Kiều Lĩnh, xã Đan Phổ (nay là Xuân Phổ, trước thuộc tổng Đan
Hải), huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
Họ Trần của ông là một họ lớn ở Đan Phổ (lúc đầu gọi Đan Phố,
sau theo cách phát âm mới đọc Phổ), cụ thân sinh ra ông là Trần Bá Huân, có
tham gia phong trào Cần Vương. Em gái ông tên Trần Thị Liên là một cán bộ Xô
Viết, hoạt động năm 1930 (mất năm 1964). Ngoài ra, ông còn có người con gái duy
nhất là Trần Thị Diệu Chương, hiện đang ở Pháp (xem “Bàn thêm về Trần Trọng
Kim”, Tạp chí Văn Hóa Nghệ An, 26-11-2009). Riêng vợ ông là em gái nhà
nghiên cứu văn học Bùi Kỷ.
Xuất thân trong một gia đình Nho Giáo, ông học chữ Hán từ
nhỏ. Năm 1897, học chương trình Pháp ở trường Pháp-Việt Nam Định. Năm 1900, thi
đỗ vào trường Thông Ngôn, tốt nghiệp năm 1903. Năm 1904, làm Thông Sự ở Ninh
Bình.
Ít ai biết rõ thuở hàn vi của Trần Trọng Kim ra sao, vì ngay
trong tập hồi ký viết cuối đời, cuốn Một Cơn Gió Bụi (tên phụ “Kiến Văn
Lục”, Sài Gòn: Nxb Vĩnh Sơn, 1969), cũng không thấy kể. Chỉ biết ông nhà nghèo,
nên năm 1906 mới nhờ bạn học cũ là Nguyễn Văn Vĩnh (1882-1936) giúp, khi ông
Vĩnh được nhà nước bảo hộ Pháp giao trách nhiệm tổ chức đi dự cuộc Hội Chợ
Marseille ở Pháp (hồi đó gọi là “đấu xảo”), sắp xếp cho ông đi theo với tư cách
thợ khảm, mà thật ra mục đích chính chỉ để tranh thủ ở lại Pháp học thêm. Từ đó
ông trải qua học trường Thương Mại ở Lyon , rồi
được học bổng vào trường Thuộc Địa Pháp. Năm 1909, vào học trường Sư Phạm
Melun, tốt nghiệp ngày 31-7-1911 rồi về nước, do học bổng của mọi sinh viên lúc
đó đột nhiên bị bãi. Sau đó, lần lượt dạy ở trường trung học Bảo Hộ (trường
Bưởi), trường Hậu Bổ và trường Nam Sư Phạm.
Ông là nhà giáo mẫu mực, có uy tín trong xã hội, từng giữ
nhiều chức vụ trong ngành giáo dục thời Pháp thuộc như: Thanh Tra các trường
tiểu học Pháp-Việt (1921), Trưởng Ban soạn thảo sách giáo khoa tiểu học (1924),
giáo viên trường Sư Phạm Thực Hành (1931), Giám Đốc các trường nam tiểu học tại
Hà Nội (1933). Ngoài ra ông còn là Phó Trưởng Ban Ban Văn Học của Hội Khai Trí
Tiến Đức và Nghị Viên Viện Dân Biểu Bắc Kỳ. Bắt đầu về hưu năm 1942 khi vừa
tròn sáu mươi tuổi.
Chỉ
một năm sau khi về hưu (1943), thời cuộc bắt đầu đưa đẩy
chuyển ông sang một hướng rẽ đầy phong ba bão táp mà bình sinh có lẽ ông chưa
bao giờ kịp nghĩ tới. Người Nhật, kéo
vào Đông Dương từ những năm 1940, với nhiều ý đồ có sẵn trong mối quan hệ tranh
quyền với Pháp, đã bắt đầu cho người ve vãn, tìm cách lui tới làm quen, lấy cớ
để hỏi han ông những kiến thức liên quan các vấn đề văn hóa, lịch sử. Họ dàn
cảnh bắt Trần Trọng Kim và cụ Dương Bá Trạc (1884-1944) đưa
đi giấu sẵn ở Chiêu Nam
Đảo (tức Singapour do Nhật chiếm đóng) để chuẩn bị cho một mưu đồ tương lai,
lấy cớ là để bảo vệ các ông thoát khỏi sự rình rập bắt bớ của mật thám Pháp.
Chuyến đi định mệnh đó vào ngày 01-01-1944, nằm trong dự mưu của người Nhật, đã
hướng cuộc đời ông vào một ngả rẽ hoàn toàn không chủ động, nếu không muốn nói
gần như trái hẳn với lập trường chính trị ban đầu của ông ([16]).
Ngày 09-3-1945, Nhật bất ngờ đảo chánh
Pháp trên toàn cõi Đông Dương, tuyên bố “trao
trả độc lập cho Việt Nam để cùng nhau xây dựng khối Đại Đông Á
thịnh vượng”, đề nghị vua Bảo Đại ra tuyên bố độc lập và chuẩn bị thành lập
chính phủ mới trên cơ sở hợp tác dưới sự bảo trợ của Nhật.
Ngày
30-3-1945, Nhật cho người bố trí đưa Trần Trọng Kim về Sài Gòn, cho hay vua Bảo
Đại muốn mời ông ra giữ chức Thủ Tướng, thành lập Nội Các mới.
Ngày
07-4-01945, Trần Trọng Kim vào yết kiến Bảo Đại ở Huế. Theo như lời kể của ông
trong tập hồi ký riêng thì ông tìm cớ thoái thác mãi, lấy lý do già yếu, không
có đảng phái và không hoạt động chính trị, nhưng cuối cùng đã phải xiêu lòng
nhận, vì nghe vua Bảo Đại trình bày vấn đề đất nước một cách rất hợp tình lý,
chứng tỏ vua cũng là một người thông minh và am hiểu tình thế (xem Một Cơn Gió Bụi, sđd., tr. 49).
Về
mặt lịch sử, dù sao vẫn phải công nhận Nội Các do Trần Trọng Kim đứng ra thành
lập ngày 17-4-1945 là chính phủ
đầu tiên của Việt Nam theo nghĩa hiện đại, và Trần Trọng Kim đã trở
thành vị Thủ Tướng đầu tiên của nước Việt Nam
độc lập, dù chỉ mới độc lập trên danh nghĩa.
Tham gia Nội Các của ông đều là các nhà trí thức tên tuổi, có trình độ học vấn
cao, nhiệt tâm, trong sạch và yêu nước, nhưng tất cả đều thiếu hẳn kinh nghiệm
quản lý và nhất là sự lọc lõi chính trị trong thời loạn.
Ngày 08-5-1945, Nội Các Trần Trọng Kim mới
chính thức tổ chức lễ ra mắt quốc dân, đưa ra bản tuyên cáo khẳng định nền độc
lập mới có được sau tám mươi năm bị Pháp cai trị, kêu gọi quốc dân ra sức đoàn
kết, gây mạnh tinh thần yêu nước trong mọi giai tầng xã hội…
Tuy nhiên, trong bối cảnh khó khăn về nhiều
mặt và trong khi đang tập trung nỗ lực làm được một số việc ích quốc lợi dân
thì thời cuộc biến chuyển dồn dập khắp nơi, Chiến Tranh Thế Giới thứ Hai kết
thúc, Nhật đầu hàng Đồng Minh vô điều kiện vì bị hai quả bom nguyên tử của Mỹ,
Nội Các Trần Trọng Kim vì thế phải từ chức (05-8-1945), tiếp theo vua Bảo Đại
tuyên bố thoái vị (30-8-1945)...
Nhìn chung, xét trên những điều kiện lịch sử
cụ thể, trong vô vàn khó khăn các mặt, Nội Các Trần Trọng Kim dưới sự lãnh đạo
đầy thiện chí của vua Bảo Đại đã đạt được một số thành công nhất định, nhưng
tất cả đều dang dở. Một số việc quan trọng về nội trị, ngoại giao đều rất sáng
suốt nhưng chỉ vừa kịp đưa ra chủ trương thì thời cuộc đã chuyển sang hướng
khác. Trong số những thành tích, đáng kể nhất và tiếp tục ảnh hưởng tốt đến các
giai đoạn về sau có lẽ là chương trình cải cách giáo dục tiếng Việt do Bộ Trưởng
Giáo Dục Và Mỹ Thuật Hoàng Xuân Hãn (1908-1996) chủ trì biên
soạn (quen gọi tắt Chương Trình Hoàng Xuân Hãn), hoàn
thành chỉ trong khoảng mười ngày, và được đem ra áp dụng ngay trong năm đó ở
miền Trung và miền Bắc (miền Nam vì có sự trở lại của Pháp nên chương trình
Pháp vẫn còn tiếp tục cho đến giữa thập niên 1950).
Về phần Trần Trọng Kim, sau khi hoàn toàn rời
khỏi chức vụ cùng với vua Bảo Đại (23-8-1945), ông tạm ở lại Huế khoảng hơn ba
tháng trong cảnh sinh hoạt buồn tẻ chờ thu xếp điều kiện trở ra Hà Nội cuối
tháng 11-1945. Trong lương tâm thanh thản vì tự cho mình đã làm hết trách
nhiệm, ông luôn tỏ ra ngậm ngùi thân thế, chán bỏ công danh, và như lời ông
nói, “thế là xong một giấc mộng Nam Kha”
(Một Cơn Gió Bụi, sđd., tr. 98).
Thế rồi, lấy lý do “để tránh cái họa binh lửa
sắp đến” (Một Cơn Gió Bụi, sđd., tr.
132), cuối tháng 5-1946, từ Hà Nội ông đã tìm đường lưu vong sang Trung Quốc,
theo đường bộ Lạng Sơn, có ý muốn liên lạc lại với Bảo Đại và các nhóm “tòng
vong” vì Bảo Đại đã được cử sang đó từ trước hồi tháng 3-1946 dưới danh nghĩa
cố vấn cho Chính Phủ Lâm Thời giao hảo với chính quyền Tưởng Giới Thạch, nhưng
sau đó Bảo Đại đi Hồng Kông rồi không về nước.
Sau nhiều năm tháng sống thiếu thốn ở Quảng Châu
và Hồng Kông, ngày 06-02-1947, ông trở về Sài Gòn ở tạm nhà luật sư Trịnh Đình Thảo. Người Pháp cùng cựu hoàng Bảo
Đại thu xếp cho ông trở về Sài Gòn lần này là để thăm dò, vận động thành lập
chính phủ mới, nhưng khi về đến, ông nhận ra những lời hứa hẹn của Pháp đều giả
dối nên quyết định không làm gì.
Đầu tháng 3-1948, ở tuổi 65, vừa túng
thiếu vừa mệt mỏi và bất lực trước thời cuộc, ông quyết định bỏ Sài Gòn qua Nam
Vang (Cam Bốt) sống với người con gái, cũng trong cảnh nghèo túng. Trong thời
gian này, ông đã tập hợp các bản thảo nhật ký của mình viết thành cuốn hồi ký Một
Cơn Gió Bụi, mà phần kết thúc là nêu lên một số nhận xét về những chỗ hay
dở của phong trào Việt Minh và khẳng định tấm lòng chân thành của ông đối với
dân tộc. Đây là quyển sách chứa đựng nhiều sử liệu quý hiếm liên quan giai đoạn
lịch sử 1945-1949, có lẽ cũng bù đắp được phần nào cho cái mộng không thành của
Trần Trọng Kim khi muốn viết tiếp bộ Việt
Nam Sử Lược.
Ít lâu sau ông trở về Việt Nam, rồi thuê nhà
định cư tại Hà Nội.
Ngày 06-9-1953, trong khuôn khổ Quốc Gia Việt
Nam thuộc Liên Hiệp Pháp, Trần Trọng Kim được Quốc Trưởng Bảo Đại mời về Sài
Gòn dự Đại Hội Đồng Quốc Gia (còn gọi “Quốc Dân Đại Hội”), và được bầu làm Chủ Tịch
Chủ Tịch Đoàn nhưng chỉ hư vị và không thực tế làm gì. Sau đó ông lên Đà Lạt định
sống an dưỡng cùng với gia đình nhưng chưa được bao lâu thì mất đột ngột tại đây
vì bị đứt mạch máu ngày 02-12-1953,
thọ 71 tuổi, thi thể được đưa máy bay về an táng cạnh chùa Láng, Hà Nội.
Trần Trọng Kim được đánh giá
là một học giả uyên thâm cả tân học lẫn cựu học, là người tận tụy cho ngành giáo
dục và cho
nền văn hóa Việt Nam trong nửa đầu thế kỷ 20.
Tuy nhiên, ông là người có tư tưởng bảo thủ và dân tộc - bảo hoàng. Chính Phan Anh, Bộ Trưởng Thanh Niên trong Nội Các trước đây
của ông đã từng nhận xét: “Trần Trọng Kim
là một người yêu nước nhưng không phải là một nhà chính trị.” Điều này
không chỉ đúng với ông mà còn đúng cả với bộ sậu của ông và với vua Bảo Đại
nữa.
Do cái ngả rẽ bất đắc dĩ
sang con đường chính trị mà không thành công của một học giả hoàn toàn không
thủ đoạn chính trị, sau Cách Mạng Tháng 8-1945, và nhất là sau năm 1954 (đất
nước tạm thời chia đôi), cũng vì cái lý lịch chính trị đó, nên tương tự như
không ít người khác (Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Nguyễn Tường Tam [nhà văn
Nhất Linh, Văn Uyển chú]…), ở miền Bắc người ta không nhắc gì đến ông nữa, cả
về phương diện thành tích học thuật chân chính. Cá nhân Trần Trọng Kim cùng với
quyển Việt Nam Sử Lược nổi tiếng một
thời đã bị một số nhà sử học mácxít đầu đàn như Trần Huy Liệu, Trần Văn Giàu... phê phán nặng nề (…) cho dù lịch sử đã sang trang.
Các sách giáo khoa môn sử cũng theo đó mà đưa ra các nhận định, hoặc mạt sát
nặng nề, hoặc chỉ nhắc lướt qua như một chi tiết phụ không đáng kể... khiến cho
học sinh và thậm chí một số trí thức tương đối trẻ ngày nay không còn biết Trần
Trọng Kim là ai và Nội Các do ông lãnh đạo có vai trò lịch sử như thế nào nữa.
Riêng cuốn Việt Nam Sử Lược đã từng bị coi là sách
cấm, khiến cả những giáo sư dạy sử trong trường đại học (như Giáo Sư Trần Quốc
Vượng…) cũng chỉ dám cất giấu đọc lén (…).
Khoảng hơn chục năm gần đây,
qua lớp bụi thời gian, “tội lỗi” của Trần Trọng Kim đã dịu bớt, người ta bắt
đầu biết đến rồi nhận ra giá trị đích thực các tác phẩm của ông, cho in đi in
lại nhiều lần Việt Nam Sử Lược, rồi Nho Giáo, Phật Giáo, Phật Lục… nhất
là bộ sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư và Luân Lý Giáo Khoa Thư do ông chủ trì
nhóm biên soạn. Từ năm 2000, tức bốn mươi bảy năm sau khi Trần Trọng Kim qua
đời, mới thấy mục từ TRẦN TRỌNG KIM bắt đầu xuất hiện trong cuốn Từ Điển Nhân Vật Lịch Sử Việt Nam do
Đinh Xuân Lâm và Trương Hữu Quýnh chủ biên (Nxb Giáo Dục). Năm 2004, khi bộ
sách quy mô Từ Điển Văn Học bộ mới ra
đời (Nxb Thế Giới), mục từ TRẦN TRỌNG KIM lại được đưa vào một cách trân trọng
hơn, do nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Huệ Chi trình bày, với gần đầy ba trang
giấy khổ lớn, bỏ hết mọi lời công kích.
Trong bài viết “Trần Trọng Kim với Việt Nam Sử Lược” (Tạp chí Xưa & Nay, số 346, tháng 12-2009), tác giả Mai Khắc Ứng trong khi tập trung
phê phán tệ nạn viết sử giáo điều thiếu tôn trọng sự thật, đã đưa ra rất nhiều
lý do để biện hộ cho Trần Trọng Kim về các mặt, rồi đi đến kết luận dứt khoát:
“Với tôi, Trần Trọng Kim qua Việt Nam Sử Lược là một người yêu nước thành tâm, một nhà sử
học chân chính, trung thực, một người cầm bút có nhân cách, một học giả xuất
sắc đã cống hiến phần trí tuệ, chí ít cho các thế hệ nửa đầu thế kỷ XX (…)”
TRẦN VĂN CHÁNH
* Trích lại bài viết “Trần Trọng Kim Và Việt Nam Sử Lược” in
ở đầu sách Việt Nam Sử Lược do Nxb
Văn Học hợp tác với Công Ty Văn Hóa & Truyền Thông Nhã Nam xuất bản tháng
12-2015. [Văn Uyển chú]
([1]) Nói “tạm” viết thêm vào vì Trần
Trọng Kim đã có dự định viết tiếp quyển sử cho những giai đoạn tiếp sau, nhưng
không thành, như ông đã trình bày ở một dòng chú thích dưới phần TỔNG KẾT sách Việt Nam Sử Lược: “Trước tôi đã dự bị
viết một quyển sử nối theo sách này. Tôi đã thu nhặt được rất nhiều tài liệu.
Chẳng may đến cuối năm Bính Tuất (1946) có cuộc chiến tranh ở Hà Nội, nhà tôi
bị đốt cháy, sách vở mất sạch, thành ra đành phải bỏ quyển sử ấy không làm được
nữa.” (Ấn bản lần ba, tr. 573).
([3]) Sách này có một bản dịch tiếng Việt
của Nguyễn Văn Nhàn, dưới nhan đề Đại Nam
Quốc Lược Sử, do Alfred Schreiner, chủ bán sách, xuất bản tại Sài Gòn. Bài
Tựa bản dịch tiếng Việt ghi: Saigon , ngày 25
tháng Avril 1905, nhưng ngoài trang bìa giả có ghi: “Diễn ra quốc âm theo kỳ in
tiếng Langsa lần thứ hai, có chủ bút quản sóc”. Trong khi đó, sách gốc tiếng
Pháp Abrégé de
l’Histoire d’Annam, bản in lần thứ hai
(deuxième édition), ngoài bìa lại ghi Saigon ,
1906. Vậy chắc tác giả giao cho ông Nhàn dịch từ khi có bản in tiếng Pháp lần
thứ nhất (trước 1906), nhưng vì lý do thương mại, họ đề “theo kỳ in tiếng
Langsa lần thứ hai” cho sách có tính cập nhật và dễ bán?
([5]) Riêng về từ “bọn”, Việt Nam Sử Lược rất hay dùng, như khi
nói “bọn ông Mạc Đĩnh Chi”, “bọn cựu thần như ông Trương Hán Siêu, Nguyễn Trung
Ngạn…”, thì hoàn toàn không có ý khinh thường, mà chỉ vì quen dùng theo câu văn
chữ Hán cổ có chữ “bối” 輩 đặt sau tên người, để chỉ số nhiều người. Nếu muốn tỏ ý xưng hô khinh thường, Trần Trọng Kim
dùng từ “nó”, hoặc “tên”, như khi kể chuyện kẻ phản bội Trương Quang Ngọc nhận
hối lộ của thực dân Pháp đi tìm bắt vua Hàm Nghi.
([10]) Tác giả mất đột ngột tháng 12-1953,
trước đó còn kịp sửa chữa cho bản in lần thứ 5 của Nxb Tân Việt (3-1954). Vậy
có thể nói, bản in lần 5 là đáng tin cậy nhất, vì tất cả những gì thêm bớt ít
nhiều trong Việt Nam Sử Lược từ ấn
bản thứ 6 trở đi, đều không có sự can thiệp sửa chữa trực tiếp của Trần Trọng
Kim. Đoạn hồi ký sau đây cho biết sau khi thôi làm Thủ Tướng và ở Sài Gòn vào
năm 1947, Trần Trọng Kim mới có một dịp cho tái bản một số sách cũ của mình: “Tôi ở Sài Gòn, có góp nhặt những sách của
tôi, định tìm nhà xuất bản cho in lại. Lúc ấy tôi gặp ông Trần Văn Văn đến thăm
tôi. Khi tôi ở Huế, ông có ra làm việc ở Bộ Kinh Tế với ông Hồ Tá Khanh, cho
nên đã quen từ trước, ông thấy tôi ở trong cái hoàn cảnh rất eo hẹp, ông liền
cho tôi vay một món tiền khá lớn và ông nhận việc tìm nhà xuất bản để in những
sách của tôi.” (Một Cơn Gió Bụi, Sài
Gòn: Nxb Vĩnh Sơn, 1969, tr. 181.)
([11]) Lời đề tặng đặt ngay sau trang bìa
giả và trước trang lời Tựa, nội dung như sau: “Có nhiều khi được ngồi tiếp
chuyện quan lớn, thường hay nghị luận đến lịch sử nước nhà, tôi cũng nhân đó mà
sửa đổi được nhiều điều rất chính đáng. Vậy nay bộ Việt Nam Sử Lược đã thành, xin kính tặng ngài để ngài thưởng giám
cho. Nay kính / TRẦN TRỌNG KIM”
([12]) Như câu cuối trang 572, ấn bản 4
viết: “Ấy là những công việc ngày nay còn
đang tiến hành, mà ta hết lòng trông mong cho mỗi ngày một tiến thêm.” Sang
ấn bản 5 đã được cắt gọn còn: “Ấy là
những công việc làm của chính phủ bảo hộ vậy.” Ngoài ra ở trang 568, còn có
thêm bốn dòng chữ chú thích cuối trang về tổ chức Việt Minh.
([13]) Theo
Nguyễn Văn Nghệ trong bài “Tác phẩm Việt
Nam Sử Lược thăng trầm theo dòng thời gian” (khoahocnet.com), thì các từ ngữ mà cụ Trần Trọng Kim dùng khi viết Việt Nam Sử Lược như: giặc cướp; khởi
loạn; biến loạn; giặc giã; quấy nhiễu; loạn; phiến động; đánh dẹp; bảo hộ… đều
được Nxb Văn Hóa Thông Tin chú thích lại. Riêng trong Quyển 4 (“Tự chủ
thời đại”) ở Chương 6 (“Công việc họ Nguyễn làm ở xứ Nam” theo nguyên bản có
tất cả chín mục nhưng khi Nxb Văn Hóa Thông Tin cho xuất bản đã bỏ bớt mục số
6: (“Lấy đất Chiêm Thành”) và mục số 7 (“ Mở đất Nam Việt và sự giao thiệp với
Chân Lạp”). Nhà xuất bản chỉ ghi ở cuối trang dòng chữ “Lược bỏ năm trang
(BT)”.
([14]) Với Nxb Đà Nẵng thì Lời
Nxb ghi như sau: “Do sách xuất đã lâu nên ngôn ngữ cũ và số liệu có vài chỗ chỉ phù hợp
với tình hình xã hội thời bấy giờ. Tuy vậy, lần tái bản này, chúng tôi vẫn giữ
nguyên bản đã được xuất bản lần đầu, chỉ bỏ phần chú thích bằng Hán Nôm là loại
chữ mà bạn đọc Việt Nam ngày nay ít dùng” (Nguyễn Văn Nghệ, tài liệu
đã dẫn).
([16]) Về chi tiết cuộc đời chính trị của
Trần Trọng Kim, có thể xem Trần Văn Chánh, “Tản mạn nhân vật lịch sử Trần Trọng
Kim qua những trang hồi ký”, Tạp chí Nghiên
Cứu Và Phát Triển, số 6-7 (104-105). 2013, in ở Huế.
____________
* PEARL BUCK (1892-1973), nữ sĩ Mỹ, giải
Nobel Văn Chương 1938, nói về sử:
“Nếu các bạn muốn hiểu biết hôm nay,
các bạn phải sục sạo hôm qua. / If you
want to understand today, you have to search yesterday.”
* Bác sĩ JOHN MICHAEL CRICHTON (1942-2008),
tác gia Mỹ, nói về sử:
“Giáo Sư Johnston thường bảo rằng nếu
bạn không biết sử, bạn chẳng biết gì cả. Bạn ví như một chiếc lá không biết mình
là một phần của một thân cây. / Professor
Johnston often said that if you didn’t know history, you didn’t know anything.
You were a leaf that didn’t know it was part of a tree.”