Đức ĐẠI TIÊN LÊ VĂN DUYỆT
Thánh tịnh Ngọc Minh Đài, 03-3 Ất Tỵ (05-4-1965)
THI
THI
DUYỆT
lại sổ đời trong quá khứ
Lửa
thiêng chưa dịu chí ngang tàng
Đại
Đạo hoằng dương cứu khổ nàn
Tiên
tục phải đâu xa vạn dặm
Lão
lấy làm vui mà thấy được nhiều nguyên căn [9] hiện diện đàn tiền.[10] (…) Vậy Lão xin mời chư
đệ muội an tọa đẳng đẳng.
(…)
THI
Ngặt nỗi người trần mãi đắm say
Mượn ngọn linh cơ xin nhắc nhở
Thấy
chăng hiện tại với tương lai?
THI
BÀI
Hiện
tại thấy những gì đau khổ
Tương
lai nào có chỗ yên thân
Bởi
không quy hợp tinh thần
Bầu
vũ trụ có dân có nước
Chẳng riêng mình hưởng phước hưởng duyên
Khéo khôn gìn giữ mối giềng
Đến
ngày Đại Đạo quy nguyên vững vàng.
Chí học Đạo hèn sang há nệ
Nhìn xem hiện tại, tương lai
Lão
ghi để ít nhiều tâm huyết
Kiếp
sống còn ai biết chăng ai
Tối
tân khí cụ khoe tài
Vật
vô tri giẫm hình hài hữu tri.
Kẻ
tham vọng bù chì đã đáng
Người
thiện lương khổ nạn thương ôi
Bao
nhiêu cá, một miếng mồi
Sông
dài biển rộng lần hồi cân phân.
Dụng
lý Đạo xây lần Đại Đạo
Đem
tài nhân mà tạo nghĩa nhân
Từ
vật chất đến tinh thần
Từ
đời tới đạo góp phần liên quan.
(…)
THI
BÀI
Cơ
tiến hóa tre tàn măng mọc
Cuộc
chuyển luân dân tộc nước non
Giống
lành quả tốt trái ngon
Cây cam há trổ bồ hòn được ư?
Một mảnh hình mấy ngõ phân ly
Gây cho hậu quả những gì
Văn
minh khoa học có chi bảo toàn?
(…)
Thiếu
nhi là muôn đội binh hùng
Dạy
con trẻ giống dòng đạo đức
Hằng
ngày tập tiếng Nam Mô,
Thanh
thiếu niên tinh thần Việt quốc
Cùng
chung vũ trụ hoàn cầu
Hình
hài un đúc trong bầu thiên nhiên.
Khôn
với dại không riêng dòng giống
Thánh
hay Hiền chớ mộng Đông Tây
Non sông ta đắp, ta xây
Ta Hiền, ta Thánh, tớ thầy cũng ta.
Đem nghĩa nhân buộc siết tình thân
Nầy Lê Lợi, nầy Triệu, Trưng
Rằng
nhược tiểu Trời cao nâng đỡ
Giống
Tiên Rồng tạm bợ chi ai
Vinh
sang lớp áo bên ngoài
Phanh
phui gang tấc hình hài cho cam.
Buồn
mà nói, nói làm chi đó
Buồn
mà than, than có ai nghe
Nhắn
ai, ai nhớ lời thề
Xây
đời đạo đức chớ hề nản công.
Đã
không phải chim lồng cá chậu
Thì
thôi đừng tranh đấu phanh phui
Khôn
ngoan rồi dại mấy hồi
(...)
Lão xin thăng.
[1] Lê
dân 黎民:
Dân chúng, thường dân,
dân đen (people, masses; lê: màu
đen); cũng gọi là lê thứ 黎庶, kiềm
lê 黔黎. Tần Thủy
Hoàng gọi dân chúng là kiềm thủ 黔首 (đầu đen) vì họ không đội mão như các quan.
[5] Tấc: Tấc lòng (nhất thốn tâm
一寸心: một tấc lòng). Thốn là tấc, bằng
một phần mười của thước (xích 尺).
[7] Chư Thiên
mạng (mệnh) 諸天命: Các bậc hướng đạo đang
nhận lãnh sứ mạng của Trời giao phó là thế Thiên hành hóa 替天行化 (thay Trời hành đạo để giáo hóa dân chúng tu
hành).
[8] Lưỡng ban 兩班:
Hai ban hay hai cụm chức sắc, chức việc và tín đồ khi hành lễ trong bửu điện: nam (phía bình bông trên Thiên Bàn) và nữ (phía dĩa trái cây trên Thiên
Bàn).
[9] Nguyên căn 原根: Nguyên nhân 原人, là những chơn linh nguồn gốc từ cõi trời,
xưa kia nhận lãnh sứ mạng xuống thế gian độ đời; khác với hóa nhân 化人 là những ai từ kim thạch, thảo mộc, cầm thú tiến hóa lên làm người.
[13] Bao nài: Bao quản, chẳng nài, chớ nài, chẳng quản ngại.
[14] Trần cấu 塵垢: Những gì con người tập nhiễm trong cuộc sống
thế gian. (Trần: bụi bặm; cấu: nhơ nhuốc.)
[15] Dân số Việt Nam (ước lượng năm 1965).
[18] Hoài: Uổng phí. Hoài công:
Uổng công sức.
[21] Giao
Châu 交州:
Tên xưa của nước Việt, bao trùm vùng đất miền Bắc Việt Nam ngày nay, và một
phần đất Quảng Tây và Quảng Đông (nay thuộc Trung Quốc). Ban đầu tên nước là Giao Chỉ 交趾 (阯). Sau khi nhà Đông Hán chiếm
Giao Chỉ, vua Hán Hiến Đế đổi tên Giao Chỉ thành Giao Châu vào năm 203.
[23] Mới ngần ấy sao?!: Chỉ mới được bao nhiêu đó hay sao?!
HUỆ
KHẢI và LÊ ANH MINH hiệp chú