Chủ Nhật, 31 tháng 1, 2016

ĐĐVU 02 / NGÀY NGÀY LẬP ĐỨC / Thánh giáo


Đức GIÁO TÔNG ĐẠI ĐẠO LÝ TRƯỜNG CANH

Thiên Lý Đàn, 30-02 Ất Tỵ (01-4-1965)

THI
Từng phen GIÁO hóa khách trần ai [1]
Rõ biết Tam TÔNG [2] sớm hiệp vầy
Chánh nghĩa ĐẠI đồng dìu đại chúng
Nguyên nhân [3] Thiên ĐẠO tạo thiên đài [4]
Rừng tòng khóm [5] vui hiền đức
Cánh nhạn TRƯỜNG giang [6] hợp trí tài
Giáng bút thâm CANH [7] tìm chí sĩ [8]
Có chăng người biết với người hay.
Bần Đạo chào chư hiền đệ, hiền muội.
(…)
Chư hiền đệ cần nên ghi nhớ: Những kẻ biết tự giác, giác tha [9] là những kẻ biết hướng đời về nẻo đạo. Địa phương tùy theo hoàn cảnh cá biệt mình mà áp dụng cho đúng theo tân pháp Đạo luật đã định. Cơ cấu tổ chức cũng chỉ là cơ cấu tổ chức, có giá trị hay không do nơi sự kết quả và hành động ở chư đệ muội vậy.
Giấy rách phải giữ lấy lề. Đời loạn, đạo [10] phải gìn chánh pháp. Tân pháp Đạo luật khuôn mẫu vẫn còn, Tiên ngôn Phật lý [11] đủ đầy trong sách đạo. Dân sinh, dân trí kết thụ được tinh hoa của Đại Đạo, sống toàn một đời sống hồn nhiên vô ngã,[12] vỗ bụng ngậm cơm.[13] Thái bình, cực lạc đến với nhân loại …
Chư đệ nên nhớ:
THI BÀI
Cảnh hỗn loạn từ đời đến đạo
Tuồng cạnh tranh ngụy xảo [14] đổi thay
Cảm thương chí sĩ nhân tài
Tâm can [15] oằn oại nào ai ai tường.
Vẻ ngơ ngác dân lương [16] mộc mạc
Thói hung hăng thú ác xác người [17]
Cái mầm tận diệt đến nơi
Trên dòng quá khứ hiện thời đã nêu.
Những gì ở Thiên điều [18] phước tội
Những gì cho thế giới nhơn loài
Cho toàn đạo đức tương lai
Rõ xem hạnh phúc đọa đày ra sao?
Thôi thì ngăn sóng trào bình tĩnh
Lướt con thuyền muôn đỉnh [19] trùng dương
Đạo mầu tỏa khắp bốn phương
Là ngày giải quyết mọi đường tâm tư.
(…)
Chư hiền đệ!
THI BÀI
Đứng trước một ván cờ thế hệ
Cuộc tranh hùng ai dễ thua ai
Có tài hay hoặc kém tài
Trong vòng trục đất chuyển xây không ngừng.
Chư hiền đệ đã từng học đạo
Hiểu chủ trương Tam Giáo đồng nguyên
Dạy khuyên kẻ dữ về hiền
Đem lòng từ ái nhẫn kiên bảo tồn.
Có căn trước [20] trí khôn quảng đại
Khá dắt dìu kẻ dại người khờ
Màng chi đắc thất [21] cuộc cờ
Hạ nguơn thay đổi từng giờ phút giây.
Ráng tu học ngày ngày lập đức
Để nhờ ơn thoát vực sông mê
Nhớ đi còn phải trở về
Cảnh kia mới thiệt muôn bề bình an.
(…)
TIẾP BÀI
Còn sanh ở trần hoàn [22] thế sự [23]
Biết bao điều lành dữ lẫn chen
Thiêu thân châu chấu ánh đèn
Đỉnh chung [24] bả lợi [25] sang hèn đua tranh.
Người tu niệm đường lành cố bước
Lời nói năng mực thước dặt dè
Lúc thương tre gộp nên bè [26]
Hết thương thì lại chia phe rẽ đường.
Đó là những thói thường thế tạm [27]
Người tu thì chớ giậm dấu chân [28]
Nói xa thì khá hiểu gần
Đời còn thay đổi muôn phần tang thương.[29]
Chỉ có Đạo tơ vương cột mối
Cùng đó đây bắc nối nhịp cầu
Đừng phân chi phái sắc màu
Hãy nhìn vạn giáo [30] cùng nhau một đường.
Hãy đoàn kết sắp tuồng đạo đức
Hoạt động trong lãnh vực tình thương
Nhẫn kiên, hòa ái, khiêm nhường
Hễ người đức độ muôn đường vinh quang.
(…)
Bần Đạo ban ơn lành toàn tất. Xin lui.



[1] Trần ai 塵埃: Trần gian, cõi trần, cõi bụi bặm, hồng trần, cõi bụi hồng. (Trầnai cùng nghĩa là bụi bặm.) Khách trần ai: Thế gian là cõi tạm, ví như quán trọ; con người sống hết một đời rồi phải rời khỏi, nên ví người đời như khách ở trọ.
[2] Tam Tông 三宗: Tam Giáo (Nho, Lão, Phật).
[3] Nguyên nhân 原人: Những chơn linh nguồn gốc từ cõi trời, xưa kia nhận lãnh sứ mạng xuống thế gian độ đời; khác với hóa nhân 化人 là những ai từ kim thạch, thảo mộc, cầm thú tiến hóa lên làm người.
[4] Thiên đài 天臺: Cái đài trên cõi trời. Nguyên nhân thiên đạo tạo thiên đài: Các bậc nguyên nhân tu hành theo thiên đạo sẽ tạo lập được ngôi vị (thiên đài) ở cõi trời.
[5] Tòng (tùng) : Cây thông (pine). : Cây mận (plum).
[6] Cánh nhạn trường giang: Cánh ngỗng trời (wild goose) bay trên sông dài. Chim nhạn thường bay thành đàn, do đó cánh nhạn trường giang là từ dùng để chỉ anh em đồng chí hướng cùng chung sức làm việc lớn, khó nhọc.
Trường (Tràng) Giang 長江 có ba nghĩa:
 Sông Dương Tử 陽子 ở Trung Quốc, là con sông dài thứ ba trên thế giới, sau sông Nile và sông Amazon.
Sông Trường Giang chạy dọc theo bờ biển, thuộc tỉnh Quảng Nam, Việt Nam, dài khoảng 70km. Đầu sông phía nam cách bờ biển khoảng 2km, đổ ra biển tại cửa Hòa An (hay An Hòa), huyện Núi Thành. Đầu sông phía bắc cách bờ biển khoảng 7km, đổ ra biển tại cửa Đại, thị xã Hội An. Ở giữa là huyện Thăng Bình và thị xã Tam Kỳ.
ƒ Trong bài thơ này, cũng như trong văn học nói chung, trường (tràng) giang (không viết hoa) có nghĩa là một con sông dài. Thí dụ: Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp / Con thuyền xuôi mái nước song song / Thuyền về nước lại sầu trăm ngả / Củi một cành khô lạc mấy dòng. (Thơ Huy Cận)
[7] Thâm canh 深更: Canh khuya. (Một đêm chia làm năm canh, canh ba là giờ Tý.)
[8] Chí sĩ 志士: Người có chí lớn.
[9] Tự giác 自覺: Chính mình giác ngộ, hiểu đạo (self-enlightened). Giác tha 覺他: Giúp cho người khác giác ngộ, hiểu đạo (enlightening others).
[10] Đạo: Giới tu hành (religious communities, religious circles).
[11] Tiên ngôn 仙言: Lời Tiên. Phật lý 佛理: Giáo lý của Phật.
[12] Vô ngã 無我: Không có cái ta tư riêng, phàm tục (non-self).
[13] Vỗ bụng ngậm cơm: Do thành ngữ hàm bộ cổ phúc 含哺鼓腹 (ngậm cơm vỗ bụng). Trang Tử Nam Hoa Kinh (thiên Mã Đề 馬蹄) có câu: Hàm bộ nhi hy, cổ phúc nhi du 含哺而熙, 鼓腹而遊. (Ngậm cơm mà vui, vỗ bụng rong chơi.) Văn học dùng thành ngữ vỗ bụng ngậm cơm để nói tới đời thanh bình, dân chúng ăn no, rảnh rang vui chơi.
[14] Ngụy xảo đều có nghĩa là dối trá, giả dối (false).
[15] Tâm can 心肝: Ruột gan, lòng dạ.
[16] Dân lương: Lương dân 良民, dân lành.
[17] Thú ác xác người: Thân xác mang hình người mà lòng dạ ác độc như thú dữ.
[18] Thiên điều 天條: Điều luật của Trời (Heavenly rules).
[19] Đỉnh: Đỉnh sóng, ngọn sóng to.
[20] Căn trước: Căn xưa, nguyên căn (tiền căn 前根).
[21] Ðắc thất 得失: Ðược và mất (gains and losses).
[22] Trần hoàn 塵寰: Trần gian, trần thế, cõi trần (the world).
[23] Thế sự 世事: Việc đời, việc trần tục (worldly affairs).
[24] Đỉnh chung 鼎鐘: Đỉnh là cái vạc để nấu ăn, chung là chuông. Nhà giàu lớn ngày xưa rất đông người, nấu cơm bằng vạc; tới giờ ăn cơm thì đánh chuông tập hợp mọi người lại. Đỉnh chung:  Gia đình quyền thế, giàu có, đông người; Cuộc sống sang giàu (luxurious life).
[25] Bả lợi: Danh lợi nhử con người sa vào chỗ sa đọa, tội lỗi giống như miếng mồi tẩm độc (bả).
[26] Tre gộp nên bè: Ghép những thân tre lại làm thành bè.
[27] Thói thường thế tạm: Thói đời giả tạm.
[28] Chớ giậm (giẫm) dấu chân: Đừng bước lên (bước theo) đường sai nẻo quấy của người khác.
[29] Tang thương 桑滄: Nói tắt câu thương hải [biến vi] tang điền 滄海[]桑田: Biển xanh biến thành ruộng dâu, ngầm chỉ biến cố (thay đổi lớn lao) ở đời; cùng nghĩa với cuộc dâu biển hay biển dâu (life’s vicissitude).
[30] Vạn giáo 萬教: Tất cả các giáo lý, học thuyết (all teachings and doctrines).
HUỆ KHẢI LÊ ANH MINH hiệp chú