Đức GIÁO TÔNG ĐẠI ĐẠO LÝ TRƯỜNG CANH
Thiên Lý Đàn, 30-02 Ất Tỵ (01-4-1965)
THI
Rõ biết
Tam TÔNG [2]
sớm hiệp vầy
Chánh
nghĩa ĐẠI đồng dìu đại chúng
Cánh nhạn TRƯỜNG
giang [6]
hợp trí tài
Có chăng
người biết với người hay.
Bần Đạo chào chư hiền đệ, hiền muội.
(…)
Giấy rách phải giữ lấy lề. Đời loạn,
đạo [10] phải gìn chánh pháp. Tân pháp Đạo
luật khuôn mẫu vẫn còn, Tiên ngôn Phật lý [11]
đủ đầy trong sách đạo. Dân sinh, dân trí kết thụ được tinh hoa của Đại Đạo,
sống toàn một đời sống hồn nhiên vô ngã,[12]
vỗ bụng ngậm cơm.[13] Thái bình,
cực lạc đến với nhân loại …
Chư đệ nên
nhớ:
THI BÀI
Cảnh hỗn loạn từ đời đến đạo
Cảm thương chí sĩ nhân tài
Cái mầm tận diệt đến nơi
Trên dòng
quá khứ hiện thời đã nêu.
Những gì ở
Thiên điều [18]
phước tội
Những gì
cho thế giới nhơn loài
Cho toàn
đạo đức tương lai
Rõ xem
hạnh phúc đọa đày ra sao?
Thôi thì
ngăn sóng trào bình tĩnh
Lướt con
thuyền muôn đỉnh [19]
trùng dương
Đạo mầu
tỏa khắp bốn phương
Là ngày
giải quyết mọi đường tâm tư.
(…)
THI BÀI
Đứng trước
một ván cờ thế hệ
Cuộc tranh
hùng ai dễ thua ai
Có tài hay
hoặc kém tài
Trong vòng
trục đất chuyển xây không ngừng.
Hiểu chủ
trương Tam Giáo đồng nguyên
Dạy khuyên
kẻ dữ về hiền
Đem lòng
từ ái nhẫn kiên bảo tồn.
Có căn
trước [20]
trí khôn quảng đại
Khá dắt
dìu kẻ dại người khờ
Màng chi
đắc thất [21]
cuộc cờ
Hạ nguơn
thay đổi từng giờ phút giây.
Ráng tu
học ngày ngày lập đức
Để nhờ ơn
thoát vực sông mê
Nhớ đi còn
phải trở về
Cảnh kia
mới thiệt muôn bề bình an.
(…)
TIẾP BÀI
Biết bao điều
lành dữ lẫn chen
Thiêu thân
châu chấu ánh đèn
Người tu
niệm đường lành cố bước
Lời nói
năng mực thước dặt dè
Lúc thương
tre gộp nên bè [26]
Hết thương
thì lại chia phe rẽ đường.
Đó là
những thói thường thế tạm [27]
Người tu
thì chớ giậm dấu chân [28]
Nói xa thì
khá hiểu gần
Đời còn
thay đổi muôn phần tang thương.[29]
Chỉ có Đạo
tơ vương cột mối
Cùng
đó đây bắc nối nhịp cầu
Đừng phân
chi phái sắc màu
Hãy đoàn
kết sắp tuồng đạo đức
Hoạt động
trong lãnh vực tình thương
Nhẫn kiên,
hòa ái, khiêm nhường
Hễ người
đức độ muôn đường vinh quang.
(…)
Bần Đạo ban ơn lành toàn tất. Xin
lui.
[1] Trần ai 塵埃: Trần gian, cõi trần, cõi
bụi bặm, hồng trần, cõi bụi hồng. (Trần
và ai cùng nghĩa là bụi bặm.) Khách
trần ai: Thế gian là cõi tạm, ví như quán trọ; con người sống hết một đời
rồi phải rời khỏi, nên ví người đời như khách ở trọ.
[3] Nguyên nhân 原人: Những chơn linh nguồn gốc từ cõi trời, xưa
kia nhận lãnh sứ mạng xuống thế gian độ đời; khác với hóa nhân 化人 là những ai từ kim thạch, thảo mộc, cầm thú
tiến hóa lên làm người.
[4] Thiên đài 天臺: Cái đài trên cõi trời. Nguyên nhân
thiên đạo tạo thiên đài: Các bậc nguyên nhân tu hành theo thiên đạo sẽ tạo
lập được ngôi vị (thiên đài) ở cõi
trời.
[6] Cánh nhạn trường
giang: Cánh ngỗng trời (wild goose)
bay trên sông dài. Chim nhạn 雁 thường bay thành đàn, do đó cánh nhạn trường giang là từ dùng để
chỉ anh em đồng chí hướng cùng chung sức làm việc lớn, khó nhọc.
Trường (Tràng) Giang 長江 có ba nghĩa:
Sông Dương Tử 陽子江 ở Trung
Quốc, là con sông dài thứ ba trên thế giới, sau sông Nile và sông Amazon.
Sông Trường
Giang chạy dọc theo bờ biển, thuộc tỉnh Quảng Nam, Việt Nam, dài khoảng
70km. Đầu sông phía nam cách bờ biển khoảng 2km, đổ ra biển tại cửa Hòa An (hay
An Hòa), huyện Núi Thành. Đầu sông phía bắc cách bờ biển khoảng 7km, đổ ra biển
tại cửa Đại, thị xã Hội An. Ở giữa là huyện Thăng Bình và thị xã Tam Kỳ.
Trong bài thơ này, cũng như trong văn học
nói chung, trường (tràng) giang
(không viết hoa) có nghĩa là một con sông dài. Thí dụ: Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp / Con thuyền xuôi mái nước song
song / Thuyền về nước lại sầu trăm ngả / Củi một cành khô lạc mấy dòng. (Thơ
Huy Cận)
[9] Tự giác 自覺: Chính mình
giác ngộ, hiểu đạo (self-enlightened). Giác tha 覺他: Giúp cho
người khác giác ngộ, hiểu đạo (enlightening others).
[10] Đạo: Giới tu hành (religious
communities, religious circles).
[13] Vỗ bụng ngậm cơm: Do thành ngữ hàm bộ cổ phúc
含哺鼓腹 (ngậm cơm vỗ
bụng). Trang Tử Nam Hoa Kinh (thiên Mã Đề 馬蹄) có
câu: Hàm bộ nhi hy, cổ phúc nhi du 含哺而熙, 鼓腹而遊. (Ngậm cơm mà vui, vỗ bụng rong chơi.) Văn
học dùng thành ngữ vỗ bụng ngậm cơm để nói tới đời thanh bình, dân chúng ăn no,
rảnh rang vui chơi.
[17] Thú ác xác người: Thân xác mang hình người mà
lòng dạ ác độc như thú dữ.
[24] Đỉnh chung 鼎鐘: Đỉnh là cái vạc để nấu ăn, chung
là chuông. Nhà giàu lớn ngày xưa rất đông người, nấu cơm bằng vạc; tới giờ ăn
cơm thì đánh chuông tập hợp mọi người lại. Đỉnh
chung: Gia đình quyền thế, giàu có, đông người; Cuộc sống
sang giàu (luxurious life).
[29] Tang thương 桑滄: Nói tắt câu
thương hải [biến vi] tang điền 滄海[變為]桑田: Biển xanh
biến thành ruộng dâu, ngầm chỉ biến cố (thay đổi lớn lao) ở đời; cùng nghĩa với
cuộc dâu biển hay biển dâu (life’s vicissitude).
HUỆ KHẢI và LÊ ANH MINH hiệp chú