Thánh
tịnh Đại Thanh ngày nay (Ảnh: Đạt Linh, Đạt Truyền)
Đại Thanh cảnh cổ kim roi
dấu
Thầy tạo khai khó lậu máy
Trời
Vạn Tiên hạ thế năm nơi
Chờ cơn hữu sự độ đời ách
tai.
Minh Giáo Thánh Truyền
(Cao Thượng Bửu Tòa, 1936)
I. GIAI ĐOẠN SƠ KHAI
Thánh
tịnh Đại Thanh hình thành từ những lời dạy của Thiêng Liêng trong đàn cơ tại
Huỳnh Long Phủ (tư gia của tiền bối Lê Kim Tỵ), ở Xóm Gà, Gò Vấp, Gia Định.
Đêm
01-10 Quý Dậu (18-11-1933), đàn cơ tại Huỳnh Long Phủ, Đức Lý Giáo Tông giáng
dạy: “Lê Kim Tỵ truyền cho
Lương Tam Sách, Lê Văn Phụng, Lê Văn Qui và Trần Công Sĩ đến hầu lịnh.”
Tuân
theo thánh lịnh, bốn vị được gọi lần lượt tề tựu đông đủ tại Huỳnh Long Phủ.
Vào giờ Tuất đêm 24-10 Quý Dậu (11-12-1933) Đức Lý Giáo Tông lâm đàn truyền dạy
lập hai cặp phò loan:
“Bần
Đạo cho vời Sách, Phụng, Qui, Sĩ bốn thanh đồng đến truyền thánh ý lập hai cặp
phò loan chấp cơ: Sách dương, Phụng âm một cặp; Qui dương, Sĩ âm một cặp. Bộ
phận phò loan nầy có sứ mạng phổ thông chơn đạo sau nầy.
Tỵ!
Hiền đệ có trọng trách trong sứ mạng ấy. Hiền đệ phải chu toàn bảo trợ, dìu dắt.
Ban,
Liêm luyện tập và hướng dẫn.
Pháp
hiệu và việc khác Bần Đạo sẽ dạy sau.”
Sau
khi nhận trách nhiệm, với sự góp công của ông Lê Văn Liêm và ông Lê Văn Bặc,
tiền bối Lê Kim Tỵ dùng trại cưa của mình trên phần đất thuê của một Pháp kiều,
dỡ ra cất lại thành căn nhà ba gian, mái và vách đều bằng lá dừa. Bên ngoài là
khu vườn rộng rãi tại ga Xóm Thơm, Gò Vấp. Nhờ vậy, bộ phận thông công có nơi
cư trú và thờ cúng, ổn định việc luyện tập, yên tâm hành đạo cho đến ngày có
thánh lịnh mới.
Đêm
30 rạng 01-12 Quý Dậu (15-01-1934), tiền bối Lê Kim Tỵ đưa bộ phận thông công đến ngôi
nhà mới cất để lập đàn. Đức Lý Giáo Tông giáng cơ ban cho hai cặp phò loan pháp
hiệu Tứ Linh đồng tử để chuẩn bị công cuộc truyền đạo ra miền Trung. Đức Giáo
Tông đặt danh hiệu ngôi thờ mới là ĐẠI THANH THÁNH TỊNH.
Thời
gian nầy, nhờ có đàn cơ thường xuyên nên người nhập môn càng ngày càng đông.
Bổn đạo phần nhiều là dân xứ Quảng (Trung Kỳ). Ông Kiều Văn Thê và bà Nguyễn
Thị Đỏ được cử làm chủ tịnh.
Khoảng
giữa năm 1934, do sự bàn bạc thống nhất của những vị sáng lập và bổn đạo, thánh
tịnh được tái thiết: xây tường, lợp ngói, chỉnh trang Đông lang, Tây lang và
Thiên Phong Đường để phù hợp với tình hình cơ Đạo đang phát triển và để có chỗ
đón tiếp bổn đạo miền Trung và Tam Giang.[1]
Công
cuộc truyền Đạo ra Trung Kỳ qua Tứ Linh đồng tử theo thánh ý được bắt đầu vào
cuối mùa Thu năm 1934, với vai trò quan trọng của Anh Lớn Lê Kim Tỵ.
Sau
khi bổn đạo thánh tịnh Đại Thanh tiễn Tứ Linh đồng tử lên đường hóa đạo miền
Trung, sinh hoạt tín ngưỡng tiếp tục diễn ra bình thường và có chiều hướng phát
triển hơn.
Sau
khi nhân dân Gò Vấp nổi dậy hưởng ứng cuộc Nam Kỳ Khởi Nghĩa ngày 23-11-1940,
thực dân Pháp ra lịnh đóng cửa thánh tịnh Đại Thanh, phá hủy nơi thờ cúng, bắt
bớ tra khảo những vị tâm đạo. Ông chủ tịnh Kiều Văn Thê bị mất tích trong pháp
nạn nầy, cơ đạo nơi đây bị đình trệ một thời gian.
Đau
lòng trước cảnh trạng ngôi thờ bị đổ nát, vợ chồng ông bà Nguyễn Khoa và Phan
Thị Xuyến cùng với một số bổn đạo nhặt nhạnh lại những linh vị, vật dụng thờ tự
nào còn nguyên vẹn mang về nhà ông bà Khoa làm chỗ thờ phượng tạm thời để bổn
đạo có nơi lễ bái. Ngôi nhà nầy nằm dọc đường rầy xe lửa (nay thuộc phường 1,
quận Gò Vấp).
Qua
năm 1944, để có nơi thờ cúng, bổn đạo góp tiền thuê ba căn phố ở ngã ba Cầu
Cống (nay là hẻm 30 đường Thích Quảng Đức, Phú Nhuận).
Năm
1954, thánh tịnh Đại Thanh dời về ngã ba chùa Quản Túc, cạnh Đông Thành Tự, Cây
Quéo, Gò Vấp (nay là đường Nguyễn Thượng Hiền, quận Bình Thạnh).
II. GIAI ĐOẠN THÀNH LẬP
Năm
1957, bổn đạo hợp nhau bàn bạc, quyết định hùn tiền mua đất cất lại thánh tịnh
để không còn cảnh nay ở chỗ nầy mai dời nơi khác nữa.
Theo
sự đề cử của ông Hai Chất, tập thể nhất trí ủy quyền cho ông Đặng Văn Hường
thay mặt bổn đạo đứng tên mua của ông Nguyễn Văn Pháo lô đất số 320, bằng khoán
số 887, diện tích 2 sào 20 m2, địa bộ xã Hạnh Thông.
Sau
đó, thánh tịnh được dựng lên nhờ sự đóng góp của bổn đạo sở tại và những nhà
hảo tâm, với vật liệu thô sơ, cột cây, mái tôle, vách ván. Trông như một ngôi
nhà bình thường, không có Bát Quái Đài và Hiệp Thiên Đài.
Thánh
tịnh mang số nhà 117/862A do bà Nguyễn Thị Đỏ và Triệu Thị Bút đứng tên hộ khẩu
(hai bà nay đã quy liễu).
Phía
ngoài còn có ngôi thờ phụ, số nhà 117/862, thuộc tổ dân phố 37, phường 3, quận
Gò Vấp. Hộ khẩu do ông Đặng Văn Hường và bà Nguyễn Thị Bài đứng tên. Ông Hường
mất năm 1985, bà Bài mất năm 1986. Ngôi thờ phụ nầy do Kiến Trúc Sư Võ Văn Tần
thiết kế, xây tường, làm gác đúc.
Tuy
thánh tịnh cất bằng vật liệu thô sơ, nhưng bổn đạo mừng vô hạn vì ổn định được
nơi thờ Đức Chí Tôn và các Đấng, không phải rày đây mai đó nữa. Được cử nhiệm
vụ cai quản, trông coi việc trong ngoài của thánh tịnh và hướng dẫn bổn đạo tu
hành là: Thái Phối Sư Phạm Văn Vân, thánh danh Thiên An (1907-1976); Lễ Sanh
Bùi Thị San, thánh danh Huỳnh Hoa Lập, người Quảng Nam, cùng gia đình vào Sài
Gòn lập nghiệp và nhập môn Cao Đài năm 1934.
Theo Minh Giáo Thánh Truyền (thánh tịnh Hắc Long Môn, Cà Mau,
1936), Đại Thanh là thánh tịnh thứ mười trong số 72 tịnh trường của Tiên Thiên.
Từ
khi nhóm Tứ Linh đồng tử về Trung truyền đạo, thánh tịnh Đại Thanh không còn
lập đàn cơ thông công với Ơn Trên. Năm 1957, tại thánh tịnh Thiên Thai (Cai
Lậy), Ơn Trên dạy Tiếp Đạo Thiên Ánh (Trần Văn Tôn), tiền bối Huệ Tâm, Huệ Mỹ
(đồng tử, gốc miền Trung) thâu nhận Phạm Khanh Hòa bấy giờ mới 11 tuổi (sinh
năm 1946) vào bộ phận thông công và tập luyện đồng tử. Đồng tử Hòa được ban
thánh danh Quang Ánh. Từ đó, thánh tịnh Đại Thanh lại có bộ phận thông công,
bổn đạo thêm đông…
Ngày
16-6 Canh Tý (1960), thánh lịnh dạy mở Đại Hội Thiên Khai Huỳnh Đạo và lễ
thượng phướn Huỳnh của Tiên Thiên Đại Đạo có đề tám chữ Nho: Thiên Khai Huỳnh Đạo Cao Đài Cứu
Thế 天開黃道高臺 救世 tại thánh tịnh Đại Thanh.
Giai đoạn nầy thánh ý muốn toàn đạo Tiền Giang (miền Đông) đồng tâm hiệp lực
nêu cao khẩu hiệu “Thiên khai
Huỳnh Đạo” tức Trời mở Đạo
Vàng trong Tam Kỳ Phổ Độ. Đạo
Vàng các Đấng thường nhắc
trong thánh ngôn, thánh giáo chính là Đạo Cao Đài.
Để
Đạo Vàng tiếp cận với nhơn sanh trong thời buổi cang thường điên đảo, phong hóa
suy vi, Ơn Trên dạy dùng tinh túy đạo Nho để thay đổi cuộc đời trở nên thuần
lương thánh đức, tức là Nho
Tông chuyển thế.
Những
năm kế tiếp, tuy chưa nối hệ thống hành chánh đạo với Hội Thánh Tiên Thiên
nhưng thánh tịnh Đại Thanh vẫn tiến thủ trên đường tu thân, phổ độ, liên giao
hành đạo với Hội Thánh Tiền Giang (Minh Kiến Đài, Gò Vấp), Hội Thánh Lâm Huyền
Châu, Cao Thượng Bửu Tòa ở Hậu Giang và các thánh thất, thánh tịnh trong phạm
vi Sài Gòn, Gia Định, cũng như các tỉnh lân cận.
Trước
đây, một số vị có công với thánh tịnh Đại Thanh được phong phẩm chức sắc do đàn
cơ từ thánh tịnh Minh Kiến Đài, nơi Hội Thánh Tiền Giang đặt trụ sở. Khi thánh
tịnh Đại Thanh hoàn nguyên, các phẩm trật ấy vẫn được Hội Thánh Cao Đài Tiên
Thiên công nhận.
III. GIAI ĐOẠN BIẾN CHUYỂN
Sau
tháng 4-1975, một số đông bổn đạo hồi hương nên sinh hoạt tín ngưỡng của thánh
tịnh Đại Thanh bị thu hẹp lại. Những kỳ cúng đàn sóc vọng chỉ được khoảng mười
người đạo hữu.
Năm
1979: Sau khi Phối Sư Thiên An (Phạm Văn Vân) liễu đạo, thánh tịnh Đại Thanh
thành lập Ban Hành Sự để tiếp tục việc hành đạo. Thành phần Ban Hành Sự gồm có:
ông Nguyễn Hữu Ba (?-1979); bà Huỳnh Thị Cúc; bà Nguyễn Thị Sửu; ông Nguyễn
Minh Hóa; ông Nguyễn Văn Tân (1935-1998).
IV. GIAI ĐOẠN HOÀN NGUYÊN
Năm
1995: Hưởng ứng lời kêu gọi hoàn nguyên của Hội Thánh Cao Đài Tiên Thiên, thánh
tịnh Đại Thanh thành lập phái đoàn về Tòa Thánh Châu Minh (xã Tiên Thủy, Bến
Tre) tham dự Đại Hội Vạn Linh lần II ngày 09-01 Ất Hợi (1995). Từ đấy, thánh
tịnh Đại Thanh thật sự có giáo quyền trung ương, hành đạo theo khuôn khổ Hiến
Chương của Hội Thánh Cao Đài Tiên Thiên và Pháp Chánh Truyền, Tân Luật Đại Đạo
Tam Kỳ Phổ Độ.
Thành
phần Ban Cai Quản, Ban Trị Sự qua ba nhiệm kỳ được công cử như sau:
NHIỆM KỲ I (1995-2000)
Hội
Trưởng: Ngọc Giáo Hữu Nguyễn Hữu
Ba; Phó Hội Trưởng: Thượng Lễ Sanh Nguyễn Văn Tân; Lễ
Sanh Hương Thiềm (Nguyễn Thị Ngọc Thiềm); Chánh
Trị Sự: Lương Văn Hoàng; Phó Trị Sự: Nguyễn Thị Hường; Thông Sự: Nguyễn Kim Bảng; Thư Ký:Nguyễn Thị Tuyết Nhung.
Cuối
nhiệm kỳ I, ông Nguyễn Hữu Ba và ông Nguyễn Văn Tân lần lượt liễu đạo.
NHIỆM KỲ II (2000-2005)
Cố
Vấn: Phối Sư Hương Nuôi (Võ Thị Nuôi), Truyền Trạng
Ngọc Kim Linh (Phạm Thị Nga); Hội
Trưởng: Thượng Lễ Sanh Võ Văn
Tính; Phó Hội Trưởng: Nguyễn Thanh Bình, Trần Thị Hạnh; Từ Hàn: Lương Văn Hoàng; Thủ Bổn: Lê Thị Xuân; Chánh Trị Sự: Phan Phi Hùng; Phó Trị Sự: Trương Thị Ngọc Hoa, Nguyễn Thị Sáu; Thông Sự: Nguyễn Kim Bảng; Trưởng Phòng Trù: Nguyễn Thị Phối; Phó Phòng Trù: Ngô Thị Kim Sa; Trưởng Phòng Công: Nguyễn Minh Đức.
Đầu
nhiệm kỳ II (năm 2000), ông Võ Văn Tính và chị ruột là Phối Sư Hương Nuôi cùng
với gia đình, con cháu đóng góp và kêu gọi bổn đạo Đại Thanh cùng Mạnh Thường
Quân gần xa ủng hộ, chung tay xây dựng ngôi Tam Đài mới phía trước chánh điện
cũ. Chánh điện cũ (không đủ Tam Đài) được dùng làm Thiên Phong Đường như hiện
nay.
Ngày
lạc thành ngôi Tam Đài được chọn làm ngày lễ kỷ niệm hằng năm: Mùng 2 tháng 12 âm lịch.
NHIỆM KỲ III (2005-2010)
Cố
Vấn: Truyền Trạng Ngọc Kim Linh (Phạm Thị Nga); Hội Trưởng: Thượng Gíáo Hữu Đặng Quốc Bảo; Phó Hội Trưởng: Lễ Sanh Hương Hạnh (Trần Thị Hạnh), và
Lễ Sanh Hương Xuân (Lê Thị Xuân); Trưởng
Phòng Trù: Nguyễn Thị Phối; Phó Phòng Trù: Lễ Sanh Hương Sa (Ngô Thị Kim Sa); Trưởng Phòng Công: Nguyễn Minh Đức; Chánh Trị Sự: Phan Phi Hùng; Phó Trị Sự: Lễ Sanh Hương Sáu (Nguyễn Thị
Sáu), Trương Thị Ngọc Hoa, và Võ Văn Lễ; Thông
Sự: Nguyễn Kim Bảng.
Trong
nhiệm kỳ nầy, Giáo Hữu Thượng Bảo Thanh kêu gọi đồng đạo gần xa cùng gia đình
bổn đạo Đại Thanh, các vị Mạnh Thường Quân ủng hộ kinh phí chỉnh trang, tu bổ
lại Thiên Phong Đường, vì đây nguyên là chánh điện cũ với khung sườn gỗ, đã hơn
năm mươi tuổi, nên đang xuống cấp trầm trọng; đồng thời, thuê thợ chạm đắp rồng
các hàng cột, ô giữa tiền diện Hiệp Thiên Đài, trang trí các bàn thờ trong
chánh điện.
Phối
Sư Hương Nuôi quy liễu (2009), toàn bộ số tiền phúng điếu được gia đình hiến
cúng thánh tịnh. Hiếu tử của Phối Sư Hương Nuôi là Lê Ngọc Hào còn đóng góp
thêm để hồi hướng chơn linh mẹ. Số tiền nầy dùng vào việc lót gạch toàn bộ sân
Đại Đồng đến tận phòng trù, tân trang thiết bị âm thanh, gắn trần nhà cách
nhiệt nơi chánh điện, chỉnh trang Siêu Sanh Đường, trồng thêm cây cảnh, lắp đèn
tại sân Đại Đồng.
Về
công tác từ thiện, họ đạo Đại Thanh thực hiện được những chuyến giúp đỡ đồng
bào nghèo các nơi như:
Năm
2006-2007:
-
Hai chuyến về thánh tịnh Cửu Khúc Tòa (Tam Bình, Vĩnh Long). Mỗi lần tặng các
em học sinh nghèo 100 phần quà, tổng trị giá 7 triệu đồng. Mỗi phần gồm có tập
vở, quần áo.
-
Một chuyến về Cà Mau tặng đồng bào nghèo 100 phần quà, tổng trị giá 5 triệu
đồng. Mỗi phần gồm có gạo, mì gói, nước tương, muối.
-
Một chuyến về thánh tịnh Thiên Thai (Cai Lậy, Tiền Giang) tặng bổn đạo nghèo 50
bộ áo dài mới.
Tại
họ đạo Đại Thanh, mỗi năm đến mùa Vu Lan đều tổ chức tặng đồng bào nghèo chung
quanh thánh tịnh 50 phần quà gồm gạo, mì gói, nước tương, chao. Riêng mùa Vu
Lan 2009, tặng 100 phần quà.
Ngoài
ra, những năm bị bão lụt, bổn đạo Đại Thanh đều hưởng ứng lời kêu gọi của Mặt
Trận Tổ Quốc quận Gò Vấp, đóng góp tiền bạc và hiện vật để cứu trợ đồng bào nơi
vùng bị thiên tai.
NHIỆM KỲ IV (2010-2015)
Cố
Vấn: Giám Đạo Ngọc Kim Linh; Hội Trưởng: Lễ Sanh Hương Hạnh (Trần Thị Hạnh); Phó Hội Trưởng: Võ Văn Lễ; Trưởng Phòng Lễ: Phan Phi Hùng; Phó Phòng Lễ: Lễ Sanh Hương Hường (Nguyễn Thị
Hường); Trưởng Phòng Thơ: Nguyễn Thị Tuyết Nhung; Trưởng Phòng Lương: Lê Thị Ngọc Thảo; Trưởng Phòng Trù: Lễ Sanh Hương Xuân (Lê Thị Xuân); Phó Phòng Trù: Lễ Sanh Hương Sa (Ngô Thị Kim Sa); Trưởng Phòng Công: Nguyễn Minh Đức; Trưởng Ban Liên Giao: Nguyễn
Thị Tuyết Sương.
*
Lược
sử thánh tịnh Đại Thanh chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Rất mong được sự góp ý
của những bậc lão thành và quý vị có được tài liệu về thánh tịnh nầy.
Truyền Trạng THANH CĂN
Hội Thánh Cao Đài Tiên
Thiên