Thứ Bảy, 30 tháng 1, 2016

ĐĐVU 01 / SỨ MẠNG GIÁO HÓA CỦA NGƯỜI CHỨC SẮC / Phạm Văn Liêm


I. Chức sắc
Chức sắc là hàng giáo phẩm trong tôn giáo. Tôn giáo là một tổ chức thực hiện công cuộc giáo hóa. Cao Đài Giáo là một tôn giáo chú trọng về giáo hóa.
Đấng giáo chủ vô hình Thượng Đế mở Đạo xưng là Thầy. Hàng chức sắc của nền Đạo thể hiện sứ mệnh giáo hóa ngay trong cách gọi tên giáo phẩm.
Trên hết là Giáo Tông, người cầm quyền dạy đạo lớn nhất, tổng quát nhất. Kế đến là Đầu Sư, Phối Sư, Giáo Sư. Chữ trong các giáo phẩm nầy thể hiện rõ vai trò tùy theo mức độ quyền pháp để dạy dỗ. Tiếp theo là Giáo Hữu cũng là người hướng dẫn tín đồ, phổ thông chơn đạo. Còn Lễ Sanh là người thực hành nghi lễ, người chịu học hỏi, chịu thực hành để bắt đầu bước vào hàng giáo phẩm.
Vậy chức sắc là người đem đạo đức dạy cho nhân sinh, cảm hóa nhân sinh trên đường thăng tiến cả hai mặt nhập thế và xuất thế.
Đức Chí Tôn đến thế gian lập Đạo cũng cần có chư Phật Tiên Thánh Thần tùy nghi trong diệu dụng vô hình, phóng điển quang dạy Đạo. Về phần Giáo Hội hữu hình, phải nhờ vào hàng chức sắc làm tay chân gieo rải giáo pháp, giáo lý, giáo nghĩa để giác ngộ chúng sanh.
Hội Thánh Truyền Giáo sau khi thành lập, hàng ngũ chức sắc đầu tiên được tuyển phong vào giai đoạn khai cơ giáo pháp. Hội Thánh tổ chức lễ Hồng Thệ rất trang trọng tại Trung Hưng Bửu Tòa để gây tinh thần quyết tâm vì sứ mệnh xây dựng Giáo Hội giáo hóa nhân sinh.
II. Sứ mạng giáo hóa
Sứ mạng là cái trách vụ nhận lãnh từ một mạng lịnh và phải gánh vác chăm lo. Người chức sắc nhận lãnh mạng lịnh của Thiêng Liêng để giáo hóa nhân sinh, thường gọi là “Thế Thiên hành hóa”, tức thay Thầy, thay Hội Thánh độ dẫn tín chúng, làm cho tín chúng biết Đạo, học Đạo, hiểu Đạo để đạt Đạo. Tức là giác ngộ được tình thương sự sống và lẽ thuần chơn để mỗi con người trở nên xứng đáng là con cái của Thầy, xứng đáng là động cơ chuyển xoay của Đại Đạo... Để tròn sứ mạng, người chức sắc phải xây dựng cho được tâm giải thoát ra khỏi sự ràng buộc của thế tình, sự câu nhử của vật chất, sự cám dỗ của sắc, tài, tửu, khí, danh lợi, bứt ra khỏi xiềng xích tham ái dục lạc, vẹt màn vô minh nhìn vào khung trời chân thiện mỹ.
Nói chung là như trên. Còn riêng về sứ mạng giáo hóa của người chức sắc Hội Thánh Truyền Giáo thì phải sao? Hội Thánh Truyền Giáo có một sứ mạng đặc biệt, một lộ trình tu chứng rất thích nghi, do vậy người chức sắc giáo hóa phải chú trọng việc gây tạo niềm tin vững chắc vào sứ mạng và lộ trình tu chứng, vào pháp môn hành trì đặc biệt đó để dắt dẫn tín đồ theo đúng lộ trình thành tựu cứu cánh.
a. Điều kiện giáo hóa
Điều kiện là những cái cần có để làm được một việc gì. Những nhu cầu để từ đó có thể thực hiện được công tích gì. Như vậy, những điều kiện cho công việc giáo hóa là gì?
- Con người: Không thể nào tự nhiên mà có được người chức sắc giáo hóa. Người chức sắc phải được tuyển chọn theo luật pháp nhà đạo và phải được đào tạo. Họ phải là người đúng quyền hành pháp luật, vượt lên trên thế sự, không la đà lẩn thẩn với danh lợi thị phi, phải tu lấy thân tâm, phải đoạn nghiệt trừ phiền, dứt nợ oan gia trái chủ. Như thế mới hầu việc được cho Thầy, mới giáo hóa được chúng sanh.
- Năng lực: Khả năng nhận hiểu, hành trì và chứng đắc, tức là lấy thành quả của chính mình để giáo hóa người.
Kết hợp con người và năng lực để đem Đạo vào đời, đưa dắt nhân sinh vào đường hướng tu học hầu mong thăng tiến trên đường tâm linh làm cho Hội Thánh thể hiện được quyền năng cứu rỗi của Thiêng Liêng. Người chức sắc giáo hóa phải sống liền với Thánh lịnh mới có Thánh linh để cảm hóa được nhân sinh. Lại cũng phải biết ứng dụng khoa học, văn hóa tâm linh, điều nhiếp các phương môn trong Thánh truyền mở ra con đường vào chánh pháp Trung Hưng một cách rạch ròi kiên định. Nghiên cứu, đối chiếu các giáo thuyết khác làm phong phú đường lối thực hiện cứu độ theo mục đích Thế đạo đại đồng, Thiên đạo giải thoát.
Người chức sắc Thiên ân hướng đạo luôn được Thầy Mẹ và các Đấng Thiêng Liêng xem trọng, luôn được sự nhắc nhở dạy khuyên bằng thánh ngôn, thánh giáo.
Đức Đông Phương Lão Tổ dạy:
“Lão lấy làm mừng. Chư Thiên ân đã vững vàng bước trên một cấp đạo để xứng vai hướng lộ dìu dắt nhơn sanh, mà Hội Thánh cũng được quyền pháp mimh định, trên dưới rõ ràng, cơ cứu chuộc mỗi ngày mới thấy hiển hiện.
Chư hướng đạo cố gắng lấy lòng mình mà đương vi sứ mạng trong công cuộc trung hưng [1] chánh pháp, xây dựng nền móng Thánh truyền hầu nâng bước nhơn sanh chóng đến cảnh thanh bình, dựng nên thế đạo, nhờ công phu công quả ấy, được nâng cao địa vị mình xứng hàng Thiên ân quyền pháp…
Nay Trung Hưng [2] đã vừa xây dựng
Chư Thiên ân tròn xứng mới là
Đừng lòng tư dục bất hòa
Thấy người phải nghĩ đến ta sau nầy.
Đừng phải để cho Thầy quở trách
Đừng để mình phải tách rời ngoài
Đường đường đáng mặt tài trai
Bên đời bên Đạo đôi vai vững vàng.[3]
b. Phương tiện giáo hóa
Người làm thợ phải có dụng cụ, người làm ruộng phải có nông cụ… Người chức sắc hướng đạo phải có phương tiện để giáo hóa. Phương tiện đó là giáo lý, kinh điển, pháp môn.
Từ bước đầu lập Hội Thánh, Thầy Mẹ và các Đấng Thiêng Liêng đã hoạch định rõ ràng về sứ mệnh truyền giáo cũng như sứ mệnh trung hưng chánh pháp. Tất cả nội dung sứ mạng ấy đã nằm trong Thánh truyền, cho nên phương tiện giáo hóa chính là khai triển phổ hóa cho mọi tín đồ học hỏi hành trì theo chánh pháp trung hưng của Thầy và giáo pháp Đại Đạo.
Muốn sử dụng được phương tiện Thánh truyền và giáo pháp Đại Đạo tất nhiên phải cần mẫn chăm chỉ học hỏi. Phải un đúc cho mình một đạo lực khả dĩ cảm hóa được người, chuyển xoay được vận hội. Ở đâu có chúng sinh thì ở đó phải có sự giáo hóa. Chỗ nào u tối thì ánh sáng Đạo mầu phải được thắp sáng, chỗ nào khổ đau thì sự cứu vớt phải được chan rải. Nhưng muốn chuyển đến, muốn thắp sáng, muốn chan rải còn cần phải có phương tiện vật chất. Thông thường trong nhà Đạo, khi ai phát đại nguyện lo cho chúng sinh thì được chúng sinh cúng dường lại. Người hướng đạo chỉ có một niệm là thuận tùng để lo cho chúng sinh mà không vọng cầu, không mong ước, từ cái ăn cái uống cũng như mọi phương tiện khác. Thế rồi tùy hoàn cảnh mọi thứ sẽ có, sẽ được đáp ứng. Kinh nghiệm của các nhà truyền giáo từ ngàn xưa cho đến hiện tại, họ chỉ biết tùy duyên, nhậm vận mà đạt thành mọi ý nguyện.[4]
Một điều cần lưu ý là thiếu phương tiện không chuyển đạo được mà quá đầy đủ có thể cũng không chuyển đạo được… Không thiếu gì những người vì chùa lớn, vì thánh thất tiện nghi đã biến thành nơi thụ hưởng, không chấp nhận sự điều dụng đi nơi khác cho dù là thăng tiến cao hơn…
Luôn luôn nên nhớ rằng nhờ phương tiện để đạt cứu cánh, nhưng phương tiện không phải là cứu cánh. Đức Trang Tử dạy rằng: Nhờ nơm được cá nhưng khi được cá hãy quên nơm. Nhờ dò đặng thỏ nhưng khi đặng thỏ hãy quên dò. Cũng như nhà Phật dạy rằng qua sông nhờ thuyền nhưng lên bờ rồi không phải tiếp tục vác thuyền mà đi.
c. Đối tượng giáo hóa
Đối tượng giáo hóa là tất cả mọi con người thế gian. Cao Đài Giáo là tôn giáo tận độ mọi người, không phân biệt giống dòng, màu da, sắc tóc, hiền ngu, sang hèn... Tất cả đều là đối tượng giáo hóa.
Theo nhà Phật, khi lấy chúng sanh làm đối tượng giáo hóa tức là tu theo Bồ Tát hạnh của kinh Hoa Nghiêm. Bồ Tát có đại nguyện đi vào chúng sanh, vào địa phủ để hóa độ. Tân pháp tận độ của Cao Đài gặp Phật Giáo ở Bồ Tát thừa nầy. Sự hóa độ phải đến với người xấu, người hư hèn, người sai ngoa tà vạy. Nơi nào còn trầm luân, nơi đó cần cứu vớt. Nơi nào nhiều tệ nạn, nơi đó cần giải trừ. Ai bị mê lầm, cần được thức tỉnh. Tất cả sinh chúng nhân gian phải nghe được, thấy được, biết được ơn gọi Kỳ Ba. Tất cả họ là đối tượng giáo hóa của người Thiên ân sứ mạng.
Người chức sắc phải lập hạnh Bồ Tát, phát tâm bồ đề từ trạng thái chơn tâm chơn tánh. Do chỗ lập tâm đó người chức sắc dù sống chung lộn với đối tượng tội lỗi, đi vào môi trường nhiễm ô cũng vẫn thanh tịnh và như vậy mới giáo hóa được đối tượng. Đó là tính cách “Hòa quang đồng trần”.
Trong bộ tranh chăn trâu của Nhật Bản, tranh thứ 10 diễn tả cái thanh tịnh của người “hòa quang đồng trần” nầy với hình ảnh “thõng tay vào chợ”. Vào giữa chợ đời cùng với cát vẩn bụi lầm, thế mà vẫn nở nụ cười thanh tịnh, nụ cười vô ngại không bị triền phược nhiễm ô.
Lưng trần chân đất chợ người
Cát lầm bụi vẩn ta cười say sưa
Thần Tiên bí quyết cũng thừa
Cây khô thoắt đã đong đưa nhụy vàng.
 Đức Phật Thích Ca là bậc Đạo Sư về sự giáo hóa. Ngài nhìn thế nhân, phân loại thành bốn đối tượng:
- Một là, đối tượng ngoài chín trong sống: Đây là những kẻ bề ngoài có vẻ mẫu mực nghiêm trang từ cái đi đứng, nói năng tỏ ra thanh tịnh đáng nể, nhưng thực chất bên trong thì tà vạy buông lung, tâm tánh nhiễu nhương, khó lường.
- Hai là, đối tượng ngoài sống trong chín: Đây là hạng đối tượng tuy bên ngoài có vẻ thô tháo nhếch nhác mà trong lòng lại thanh tịnh kỷ cương.
- Ba là, đối tượng ngoài sống trong sống: Loại nầy thì cả trong ngoài đều hỏng. Ăn nói sống sượng khoác lác, hành vi kệch cỡm, tâm địa bất định bất an.
- Bốn là đối tượng ngoài chín trong chín: Là những người đã trui luyện cả thân tâm đều được thanh tịnh. Được vào hạng nầy là những thành quả của giáo hóa viên mãn.
d. Thực hành giáo hóa
Đi vào công việc giáo hóa người chức sắc phải luôn luôn “ngôn hành hợp nhất”. Lời nói ra phải hợp chánh đạo, chánh lý, ám hợp thiên địa. Một lời nói phải nghìn dặm cũng nghe theo. Lời đã nói ra, lời ấy phải tận thiện: “Ngôn thiện tắc hữu tín.” Gây được tín tâm cho người thì thực hành theo lời giáo huấn tất hẳn hoi.
Lời nói mà được chính là do tâm. Người có tâm bất chính thì lời sẽ không lành, sẽ gây nên họa ương, không cảm hóa được ai. Muốn có tâm minh chánh, lời nói minh chánh thì người chức sắc luôn để tâm nghiên cứu, học hiểu giáo lý, gắn liền với ơn điển Thiêng Liêng, đặt mình trong quyền pháp. Mọi hành vi cử chỉ phải luôn đặt trong khuôn phép, tu hành không nhếch nhác bừa bãi. Những người dung mạo không đoan chính, ăn nói không nghiêm trang sẽ khó giáo hóa được người.
Thực hành giáo hóa cần có tâm quảng đại bao dung, bác ái công bình, và bền chí.
Thực hành giáo hóa cũng đòi hỏi nhiều nghệ thuật và am tường khoa tâm lý. Thầy và các Đấng Thiêng Liêng đã áp dụng nghệ thuật và tâm lý trong thánh ngôn thánh giáo rất tuyệt vời khiến dễ cảm thụ lòng người cải hóa nhân sinh.
e. Thành tựu của giáo hóa
 Thành tựu là cái kết quả thu đạt được. Kết quả nầy có ở cả hai: chức sắc giáo hóa và đối tượng giáo hóa.
Người chức sắc giáo hóa phải đạt được mức độ chín cả mọi mặt. Quả có chín mới thu hái, cơm có chín mới dọn bữa. Phải chín chắn từ ngôn hành đến phong cách, nếp sống… mới tạo được hiệu quả giáo hóa. Người chức sắc vốn được tuyển chọn bình bầu (công cử, suy cử) chứ không thể tự mình tranh thủ mà được, và từ đó người chức sắc phải chịu đào tạo mài giũa, chịu giáo hóa. Có chịu giáo hóa, chịu đào tạo thì mới có thể giáo hóa người. Người giáo hóa được người phải thực sự tạo được tâm phục khẩu phục mới có được vị trí thiện cảm trong lòng mọi người. Ai không có cái chơn tâm, chơn trí, chỉ dùng thủ thuật hào nhoáng bề ngoài thì nhất định không chinh phục được người mà chỉ là trò hoạt kê cho người giễu cợt mà thôi.
Đối tượng giáo hóa có những thành tựu cả về tướng pháp lẫn tâm pháp.
Về tướng pháp, mọi tín hữu giữ được quy giới tinh nghiêm, noi theo được đúng đường lối, tuân thủ mọi chủ trương, khai thông được mọi bế tắc, cởi mở được mọi rối rắm, an bài được mọi trật tự, điều chỉnh được mọi lệch lạc, nắm vững được cơ động tịnh để tiến hóa tồn vong. Phải biết thuận ứng hòa vui trên bước đường thăng tiến. Gặp chướng ngại không lùi chân, gặp gian nguy không thối bước. Khi vui không hỷ hạ, lúc buồn chẳng âu sầu, luôn giữ được tâm bình trong mọi hoàn cảnh để làm sáng danh Đạo, danh Thầy và cơ đồ Hội Thánh. Được như vậy thì có thể vững vàng thâm nhập vào Đạo của trời đất, thâm nhập vào quy luật của thiên nhiên, đặt chơn trí vào sự thấu hiểu giáo lý Đại Đạo, đặt chơn tâm vào cơ bí nhiệm của pháp môn, đặt tinh thần vào trong điển lực Thiêng Liêng, kết tụ cho mỗi người được pháp vị, đạo vị làm rực rỡ cái linh quang nội tại, làm cho con người thưởng thức được vẻ đẹp tinh thần thanh cao thánh thiện. Lấy sự thương yêu, lẽ công bằng mà tạo dựng hạnh phúc để khai thế tạo thế, để không còn mạnh hiếp yếu, giàu khinh nghèo. Ai ai cũng chung nhau trong đạo nghĩa, trong đạo lý.
Về tâm pháp: Nói giáo hóa là hướng dẫn dạy dỗ để cải hóa con người, thực sự là giúp con người trở về với chơn tánh, chơn trí của họ.
Chơn tánh là cái tánh thật, cái tánh y nhiên như mặt gương trong, dù phản chiếu muôn ảnh ngàn hình, dù hiện rõ muôn màu ngàn sắc mà mặt gương vẫn không thay đổi. Như cánh nhạn lưng trời không lưu lại dấu vết trên nền trời. Như trăng lồng đáy nước mà nước chẳng giữ được trăng, trăng không dính nước, nước chẳng dính trăng.
Chơn trí là cái trí bao trùm không phân biệt so sánh. Cái trí thường hằng mà Đạo Học gọi là ông chủ (chủ nhơn ông) tức là cái chơn tâm.
Kinh Kim Cang dạy: Tâm quá khứ, tâm hiện tại, tâm vị lai không thể được.” [5] Kinh dạy phá ba cái tâm ấy vì chúng là tâm vọng, không thật. Còn chơn tâm, chơn trí hay ông chủ thì hằng hữu, phi thời gian.
PHẠM VĂN LIÊM
Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài



[1] Trung hưng 中興: Hồi phục lại sau thời kỳ suy yếu (restoration after a temporary decline). [Ban Ấn Tống chú]
[2] Trung Hưng Bửu Tòa tại Đà Nẵng. [Ban Ấn Tống chú]
[3] Đàn ngày 09-01 Kỷ Hợi (16-02-1959).
[4] Vấn đề bảo trợ cuộc sống áo cơm của người hướng đạo thật ra không đơn giản. Xem thêm bài Ăn Cơm Có Canh, Tu Hành Có Bạn, in trong Lòng Con Tin Đấng Cao Đài (tr. 12-16), của Huệ Khải. (Nxb Tôn Giáo, 2010, quyển 4, trong Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo.) [Văn Uyển chú]
[5] Quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc.