Chủ Nhật, 31 tháng 1, 2016

ĐĐVU 02 / KÍNH MỪNG PHẬT ĐẢN / Thánh giáo


Trước năm 1950, cũng như một số nước Đông Á, Việt Nam mừng đại lễ Phật Đản (Vesak) vào ngày 08-4 âm lịch. Đại Hội Phật Giáo Thế Giới lần thứ Nhất (the First Conference of the World Fellowship of Buddhists) tổ chức tại Tích Lan (Sri Lanka) từ 25-5 đến 08-6-1950, quy tụ đại biểu hai mươi sáu nước thành viên (trong đó có Việt Nam) đã đồng thuận chọn ngày Phật Đản cho toàn thế giới là ngày 15-4 âm lịch. Tuy nhiên, cộng đồng đạo Cao Đài vẫn duy trì truyền thống cũ là ngày 08-4 âm lịch.
Từ giữa thập niên 1960 tới nay, thánh thất Bình Hòa (Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo), số 174/30A Chu Văn An, phường 12, quận Bình Thạnh, hàng năm vẫn mừng lễ Phật Đản kết hợp liên giao các thánh sở, tôn giáo bạn vào ngày 08-4 âm lịch.
Kính mừng Phật Đản 2556, Văn Uyển trân trọng trích lục lời dạy của Đức Quan Âm Như Lai và Đức Phật Tổ cung hiến quý đạo hữu, đạo tâm. Hai thánh giáo sau đây do bộ phận thông công Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam (quận 1, Sài Gòn) phối hợp với Tam Giáo Điện Minh Tân (quận 4, Sài Gòn) tiếp nhận trong dịp kỷ niệm Phật Đản 1965.
Huờn Cung Đàn, giờ
đêm 07 rạng sáng 08-4 Ất Tỵ (07-5-1965).
THI
THIỆN hữu thiện huờn lẽ chí công [1]
TÀI lành cội đức ráng vun trồng
ĐỒNG nhan nhớ cảnh sương pha tóc [2]
TỬ đệ dìu nhau lánh bụi hồng.[3]
THIỆN TÀI ĐỒNG TỬ
Tiểu Thánh chào chư Thiên mạng.[4] Chào chư liệt vị [5] nam nữ. Tiểu Thánh tuân lịnh báo đàn. Liệt vị thành tâm tiếp Bồ Tát lâm đàn [6] dạy đạo. Tiểu Thánh xin xuất ngoại ứng hầu. Thăng.
TIẾP ĐIỂN
THI
Rưới nước nhành dương tắt lửa hồng
Cứu người đang lạc nẻo gai chông
Lên thuyền bát nhã sang bờ giác
Chứng quả nghìn thu chốn Đảo Bồng.[7]
THƯỜNG CƯ NAM HẢI QUAN ÂM NHƯ LAI
Bần Đạo chào chư Thiên sắc.[8] Chào chư hiền sĩ, hiền muội.
Trước giờ Phật Tổ lâm cơ,([9]) Bần Đạo để đôi lời khuyên chung chư hiền sĩ, hiền muội trên bước đường tu niệm.
Chư hiền sĩ, hiền muội!
Hạ nguơn mạt pháp, Đại Đạo hoằng dương, gồm Tam Giáo vào một lý duy nhứt để phục hưng chánh pháp, cứu rỗi toàn linh trong cơn lặn hụp xa vời trên dòng bể khổ, lập lại đời thượng nguơn thánh đức cho trăm họ hòa bình, càn khôn [10] an tịnh.
Nam bang [11] nầy rất có duyên phúc trong kỳ Long Hoa chuyển thế,[12] nên mới được Thượng Đế lâm phàm,[13] cùng chư Phật Tiên, Thánh Thần dùng điển quang giáo đạo.
Duyên phúc nầy, hỡi ai đã biết gội nhuần và thọ hưởng?!
THI
Máy Tạo [14] tuần huờn [15] cuộc đổi thay
Phúc duyên ai biết hưởng ơn dày
Tam Kỳ ân xá nên mau bước
Trễ một ngày qua, khổ một ngày.
THI BÀI
Ngày tháng chẳng đợi chờ hứa hẹn
Máy quang âm [16] như tiễn ly cung [17]
Đặt chân lên cõi trần hồng
Bao nhiêu sứ mạng Chín Trùng [18] phó giao.
Nghiệp vương bá sửa trau giềng mối
Nợ nhơn quần [19] xã hội tạo đoan [20]
Sắp bày nên cảnh thế gian
Cỏ cây nhơn vật muôn ngàn hóa sanh.
Đem thánh đức lập thành nền móng
Dụng nhơn luân [21] điều động nguyên nhân [22]
Thượng, trung, hạ giới định phần
Càn khôn vũ trụ xây vần [23] lại qua.[24]
Cảnh Tiên tục khác là chỉ có
Không dục tâm,[25] không ngõ tử sanh
Không tham vọng, không giựt giành
Không dùng vật chất, vị danh [26] treo mồi.
Nên chẳng có luân hồi oan nghiệp [27]
Nên không còn chuyển kiếp trả vay
Sớm cung Bắc, chiều non Đoài [28]
Một bầu trời đất, gót hài ngao du.[29]
Người lỡ tạo trần tù bốn vách [30]
Lỡ bước vào không cách trở day
Tuy không bóng dáng hình hài
Cao không đo được, sâu dày khó thăm.[31]
Chỉ có kẻ minh tâm kiến tánh [32]
Dụng phép mầu trên cảnh hư vô
Thoát ra bốn vách mê đồ [33]
Đổi phàm lập thánh, quy mô vững vàng.
Phép mầu ấy chớ sang Bắc Hải
Phép mầu không tìm tại Tây Phương
Cũng không xa ngõ cách đường
Mà do máy Tạo chuyển luân vận hành.
Máy Tạo đã sẵn dành nhơn loại
Một hình hài gồm thảy cơ quan [34]
Trời, đại thiên địa [35] tuần huờn
Người, tiểu thiên địa [36] chuyển luân cơ mầu.
Gươm trí huệ [37] tạo thâu vũ trụ
Óc binh thơ [38] phân phú [39] non sông
Nhơn luân cang kỷ [40] dặn lòng
Tinh thần, vật chất tương đồng [41] âu ca.[42]
Kìa ngũ sắc tường quang [43] chiếu giám, Phật Tổ sắp đến chứng lễ chư hiền. (…)
Chư hiền sĩ, hiền muội thành tâm tiếp Phật Tổ và chư Bồ Tát, Bần Đạo ban ơn cho tất cả. Thăng.
TIẾP ĐIỂN
TÂY PHƯƠNG GIÁO CHỦ
THÍCH CA NHƯ LAI THẾ TÔN
Bổn Sư mừng chư môn đồ thiện nam, tín nữ.
NGÂM
Lành thay Nam Thiệm Bộ Châu [44]
Đất linh gieo giống Đạo mầu tế nhân [45]
Lòng thành khẩn nguyện khách trần [46]
Cơ huyền [47] giáng bút ban ân mấy lời.
DIỄN CA
Điên đảo kham ta hồ thế sự [48]
Thương cho đời lành dữ khôn phân [49]
Vùi tánh linh giữa chốn phong trần [50]
Vị tằng hữu nhơn duyên đắc pháp.[51]
Chư môn đồ ôi!
Hãy nhớ câu của Tổ Sư Nam Nhạc:[52]
Nhứt thiết chư pháp
Giai tùng tâm sanh
Tâm vô sở sanh
Pháp vô sở trụ
Nhược đạt tâm địa
Sở trụ vô ngại.[53]
Tâm pháp ấy thoát nơi dòng khổ hải [54]
Chứng bồ đề đạo quả [55] kiến Như Lai [56]
Phật tánh đều có ở khách trần ai
Không nhọc kiếm Linh Đài [57] hay Thứu Lãnh.[58]
Dục đắc [59] Như Lai hạnh
Tu tri [60] Đại Đạo chơn [61]
Không dây ai biết nghe đờn [62]
Vạn thù quy nhứt [63] thượng nguơn trở về.[64]
Hỡi môn đồ! Hỡi chúng sanh!
Bổn Sư lâm đàn chứng lễ cúng dường của chư môn đồ cũng như toàn cả chúng sanh lễ bái. Bổn Sư ban ơn lành và khuyên chư môn đồ nên nhớ lời nầy:
Cây biết cội, nước biết nguồn. Như thế mới gọi biết hành cái Đạo của Ta.
Tự giác,[65] giác tha;[66] đem giống từ bi gieo trên ngũ trược [67] cho toàn cả chúng sanh khỏi cảnh nghiệp chướng luân hồi. Như thế mới gọi là tu cái hạnh của Ta.
Bằng chẳng được, muôn ngàn kiếp thế gian nầy không cải tạo, thì mong gì đắc quả Như Lai.
Lành thay! Lành thay Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ!
NGÂM
Tây Phương đất Phật gầy nên
Tam Kỳ Phổ Độ xây nền âu ca.[68]
Bổn Sư ban ơn lành chư môn đệ. Thăng.



[1] Thiện hữu thiện huờn (hoàn) 善有善還 lẽ chí công 至公: Việc lành thì có việc lành đáp trả lại, đây là luật rất công bằng của trời đất.
[2] Đồng nhan 僮顏: Vẻ mặt trẻ nhỏ. Đồng nhan nhớ cảnh sương pha tóc: Đang khi còn trẻ hãy nhớ nghĩ tới lúc tuổi già tóc bạc.
[3] Tử đệ 子弟 (đệ tử 弟子): Kẻ học trò, người học đạo, tín đồ (disciples). Bụi hồng (hồng trần 紅塵), ám chỉ cõi thế gian, cõi người ta (the world, human society).
[4] Chư Thiên mạng (mệnh) 諸天命: Các bậc hướng đạo đang nhận lãnh sứ mạng của Trời giao phó là thế Thiên hành hóa 替天行化 (thay Trời hành đạo để giáo hóa dân chúng tu hành).
[5] Chư liệt vị ()列位: Các ngài, các vị.
[6] Lâm : Tới, đến (to arrive), cách nói tôn kính. Lâm đàn 臨壇 (đến với đàn cơ, giáng đàn, giáng cơ).
[7] Đảo Bồng: Bồng Đảo 蓬島, cũng gọi non Bồng, núi Bồng Lai 蓬萊, Bồng Doanh 蓬瀛; ngầm chỉ cõi Tiên.
[8] Chư Thiên sắc 諸天色: Các vị Thiên ân chức sắc.
[9] Lâm 臨乩: Cũng như lâm đàn 臨壇 (đến với đàn cơ, giáng đàn, giáng cơ).
[10] Càn khôn 乾坤: Trời đất, vũ trụ (the universe, heaven and earth).
[11] Nam bang 南邦: Nước Nam, Việt Nam.
[12] Chuyển thế 轉世: Xoay đổi cõi đời (to transform the world).
[13] Lâm phàm 臨凡: Tới cõi trần gian, cách nói tôn kính.
[14] Máy Tạo: Máy Trời, Thiên cơ.
[15] Tuần huờn (hoàn) 循環: Xoay vần theo chu kỳ (to circulate cyclically).
[16] Quang âm 光陰: Thời gian (time).
[17] Tiễn : Mũi tên (arrow). Ly cung 離弓: Rời khỏi dây cung. Ý trn câu: Thời gian qua mau vùn vụt như mũi tên bắn ra khỏi dây cung.
[18] Chín trùng: Cửu trùng 九重, chín bậc; tiếng chỉ Thượng Đế.
[19] Nhơn quần 人群: Loài người (mankind), cùng nghĩa nhân sinh (nhơn sanh) 人生.
[20] Tạo đoan 造端: Khởi đầu, tạo ra.
[21] Nhơn luân 人倫: Các mối quan hệ đạo đức (ethical relations). Luân là các mối quan hệ giữa người với người (human relations).
[22] Nguyên nhân 原人: Những chơn linh từ cõi thượng giới, xưa kia nhận lãnh sứ mạng xuống thế gian độ đời; khác với hóa nhân 化人 là những ai từ kim thạch, thảo mộc, cầm thú tiến hóa lên làm người.
[23] Xây vần: Xoay vần.
[24] Lại qua: Tới lui, trở về và ra đi (như oát triền 斡輾).
[25] Dục tâm 欲心: Lòng ham muốn. Không dục tâm, không ngõ tử sanh: Không có lòng ham muốn thì thoát khỏi luân hồi.
[26] Vị danh 位名: Địa vị cao và danh vọng, tên tuổi (high rank and fame).
[27] Oan nghiệp 冤業: Hậu quả xấu kiếp này phải gánh chịu để đền trả tội ác đã gây tạo trong kiếp trước.
[28] Đoài : Phương Tây (west).
[29] Ngao du 遨遊: Dạo chơi (to roam, to travel).
[30] Trần tù 塵囚 bốn vách: Bốn vách nhà tù thế gian. Bốn vách (tứ đổ) hay tứ đổ tường 四堵牆() là bốn thứ tửu, sắc, tài, khí 酒色財氣 (rượu, sắc dục, tiền bạc, và ma túy); chúng trói buộc con người vào chỗ say đắm, mê mệt; chúng giam hãm con người, khiến con người mất tự do, giống như bị nhốt trong bốn vách nhà tù (đổtường đều có nghĩa là vách tường).
[31] Khó thăm: Khó thăm dò, khó dò xét (thăm do chữ thám : to explore).
[32] Minh tâm kiến tánh 明心見性: Sáng lòng (không còn bị dục vọng che lấp) thì thấy được bổn tánh, tức là đắc đạo, thành Phật thành Tiên.
[33] Mê đồ 迷途: Con đường mê muội, sai lầm, cũng như mê lộ 迷路 (the path of error).
[34] Cơ quan 機關: Bộ phận chức năng chủ yếu trong thân thể (organ), như mắt là cơ quan để nhìn, tai là cơ quan để nghe…
[35] Đại thiên địa 大天地: Vũ trụ lớn (macrocosmos).
[36] Tiểu thiên địa 小天地: Vũ trụ nhỏ (microcosmos), ngầm chỉ thân xác con người.
[37] Gươm trí huệ (huệ kiếm 慧劍, the sword of wisdom): Con người muốn khỏi đau khổ, phiền não phải dùng trí huệ suy xét các nguyên nhân tạo ra não phiền, đau khổ và rồi cương quyết cắt đứt mọi sự ràng buộc, mọi mối liên hệ với chúng. Do đó, trí huệ được ví như thanh gươm sắc bén.
[38] Óc binh thơ (thư) 兵書: Tài cầm binh. Ở đây nên hiểu theo nghĩa rộng là tài cai trị đất nước, bảo vệ dân chúng.
[39] Phú (phúc) : Che chở (to protect). Phân phú : Chia ra mà gìn giữ, bảo vệ, che chở.
[40] Cang (cương) kỷ: Kỷ cương 紀綱, phép tắc, luật lệ, kỷ luật.
[41] Tinh thần, vật chất tương đồng: Cũng như tâm vật bình hành 心物平行, không thiên lệch về bên tâm linh hay bên vật chất; không duy tâm cũng không duy vật.
[42] Âu ca 謳歌: Hát mừng thanh bình.
[43] Ngũ sắc tường quang 五色祥光: Hào quang năm màu mang theo điển lành của Tiên Phật.
[44] Nam Thiệm Bộ Châu 南贍部洲: Theo Phật Giáo, là một trong bốn châu lớn, cũng gọi cõi Diêm Phù Đề, tức là cõi địa cầu. Ba châu khác là Bắc Câu Lư Châu, Tây Ngưu Hóa Châu, và Đông Thắng Thần Châu.
[45] Tế nhân 濟人: Cứu giúp người.
[46] Khách trần: Thế gian là cõi tạm, như quán trọ; con người sống hết một đời rồi phải ra đi, nên người đời như khách trọ.
[47] Cơ huyền: Cơ bút huyền diệu, nhiệm mầu.
[48] Điên đảo kham ta hồ thế sự 顚倒堪嗟乎世事: Ôi, việc đời chịu nhiều điên đảo!
[49] Khôn phân: Không thể phân biệt được.
[50] Phong trần 風塵: Gió bụi; ngầm chỉ cảnh đời loạn lạc, hay cuộc đời gian nan khổ cực, phiêu bạt (nay đây mai đó).
[51] Vị tằng hữu nhơn (nhân) duyên đắc pháp 未曾有因緣得 : Chưa từng có nhân tốt duyên lành để thọ nhận được đạo pháp.
[52] Nam Nhạc Hoài Nhượng 南嶽懷讓 (677-744): Sư họ Đỗ, quê ở Kim Châu, xuất gia năm mười lăm tuổi, chuyên về giới luật. Không hài lòng với kết quả tu học hữu vi, sư tự nhủ: “Người xuất gia phải học pháp vô vi, trên trời dưới đất chẳng có gì hơn được.” Theo lời khuyên của nhiều đạo hữu, sư tìm đến Tào Khê yết kiến Lục Tổ Huệ Năng. Sau tám năm được Lục Tổ truyền tâm ấn, nhưng sư tiếp tục ở lại hầu Lục Tổ thêm mười lăm năm nữa mới rời Tào Khê ra đi truyền pháp. Sư trở thành một vị tổ thiền lừng danh đời Đường (Trung Quốc).
[53] Nhứt thiết chư pháp 一切諸法: Tất cả các pháp
Giai tùng tâm sanh 皆從心生: Đều sinh từ tâm
Tâm vô sở sanh (sinh) 心無所生: Tâm không chỗ sanh
Pháp vô sở trụ 法無所住: Pháp không chỗ bám
Nhược đạt tâm địa 若達心地: Nếu đạt đất tâm [trạng thái của tâm không có chỗ sinh]
Sở trụ vô ngại 所住無碍: Chỗ bám chẳng ngại [trở ngại].
Ghi chú: Trong thánh giáo này, Đức Thế Tôn không nhắc hai câu kết thúc bài kệ của Tổ Sư Nam Nhạc. Hai câu ấy như sau:
Phi ngộ thượng căn 非遇上根: Không gặp đại căn
Thận vật khinh hứa 慎勿輕許: Chớ hứa dể duôi [đạo pháp bất khinh truyền].
[54] Khổ hải : Biển khổ (the ocean of suffering), ám chỉ cõi đời (the world).
[55] Bồ đề đạo quả 菩提道果: Quả vị chánh giác của Phật.
[56] Kiến như lai 見如來: Thấy được Phật tánh, chơn tánh, Thượng Đế tánh. (Tánh này ở Phật Thánh không thêm, ở phàm phu không bớt, nên gọi là như lai.)
[57] Linh Đài 靈台 trong câu này ngầm chỉ Linh Sơn, chứ không phải đỉnh đầu (nê hoàn cung). Xem chú thích (58) bên dưới.
[58] Thứu Lãnh: Núi Linh Thứu 靈鷲 (thường gọi là Linh Sơn 靈山) ở đông bắc thành Vương Xá 王舍 nước Ma Kiệt Đà 摩竭陀, chỗ Phật Thích Ca giảng kinh Pháp Hoa.
[59] Dục đắc 欲得: Muốn có được.
[60] Tu tri 須知: Nên biết.
[61] Đại Đạo chơn (chân) 大道眞: Chân lý, giá trị thật của Đại Đạo.
[62] Không dây ai biết nghe đờn: Đố ai nghe được tiếng đàn của cây đàn không có dây. Cây đàn không dây thì không phát ra tiếng. Do đó tiếng đàn của cây đàn không dây có nghĩa là tiếng nói vô thinh (the voice of the silence), tiếng gọi của các Đấng thiêng liêng từ cõi vô vi để thức tỉnh người trần gian.
[63] Vạn thù quy nhứt : Mọi khác biệt đều trở về một mối.
[64] Thượng nguơn trở về: Trở về cõi thượng nguơn thánh đức sau hội Long Hoa.
[65] Tự giác 自覺: Chính mình giác ngộ, hiểu đạo (self-enlightened).
[66] Giác tha 覺他: Giúp cho người khác giác ngộ, hiểu đạo (enlightening others).
[67] Ngũ trược 五濁: Năm thứ ô trược (dơ bẩn) con người phải chịu trong thời mạt kiếp:  Kiếp trược 劫濁: Nhiều thứ bệnh nổi lên, nạn đói xảy ra, chiến tranh lan tràn mọi nơi; Kiến trược 見濁: Tà kiến thịnh hành; ƒ Phiền não trược 煩惱濁: Con người nuôi nhiều tham dục, tâm hồn phiền não; Chúng sinh trược 眾生濁: Con người vô đạo đức, không sợ quả báo; Mệnh trược 命濁: Con người chết sớm.
[68] Âu ca 謳歌: Hát mừng thanh bình; ở đây có nghĩa là đời thanh bình.
HUỆ KHẢI LÊ ANH MINH hiệp chú