Thứ Bảy, 30 tháng 1, 2016

ĐĐVU 01 / CÁC THÁNH SỞ CAO ĐÀI CÓ NGUỒN GỐC TỪ BỐN CHI ĐẠI ĐẠO VÀ PHẬT GIÁO / Đạt Truyền

Ngũ Chi Đại Đạo là Minh Sư, Minh Đường, Minh Lý, Minh Thiện và Minh Tân.
Minh Sư có nguồn gốc từ Trung Hoa, truyền qua Việt Nam vào năm 1863.
Minh Đường có nguồn gốc từ Minh Sư.
Ba chi Minh Lý,[1] Minh Thiện và Minh Tân được Ơn Trên chuẩn bị có mặt ở miền Nam Việt Nam vài năm trước khi đạo Cao Đài ra đời để làm điều kiện yểm trợ cho công cuộc khai mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Không kể Minh Lý, một số thánh sở của bốn chi đạo Minh Sư, Minh Đường, Minh Thiện và Minh Tân đã quy hiệp Cao Đài và ngày nay vẫn còn.
Ngoài bốn chi nói trên, vào những ngày đầu khai Đạo, các đàn phổ độ của đạo Cao Đài thường lập tại tư gia hoặc mượn một số chùa Phật như:
- Hội Phước Tự, Trường Sanh Tự của Yết Ma Luật (ở Cần Giuộc, Long An).
- Long Thành Tự, Phước Linh Tự của Yết Ma Nguyễn Văn Xoài (ở Cần Đước, Long An).
- Vạn Phước Tự của Yết Ma Lê Văn Nhung (ở Hốc Môn, Gia Định).
- Phước Long Tự của Yết Ma Giống (ở Chợ Đệm, Bình Chánh).
- Thiền Lâm Tự (chùa Gò Kén) của Hòa Thượng Như Nhãn (ở Long Thành, Tây Ninh).
1. NGUỒN GỐC TỪ CHI MINH ĐƯỜNG: VĨNH NGUYÊN TỰ


Vĩnh Nguyên Tự là di tích lịch sử thứ hai của đạo Cao Đài sau Cao Đài Hội Thánh (trên nền cũ của Quan Âm Tự) ở Dương Đông (Phú Quốc). Vĩnh Nguyên Tự được cất năm 1908, tại xã Long An, quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn (nay thuộc huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An), do Ngài Lê Văn Tiểng, đạo hiệu là Lê Đạo Long, khai sáng chi Minh Đường năm 1876. Ngài tu theo Minh Sư đến phẩm Thái Lão Sư, chứng quả Như Ý Đạo Thoàn Chơn Nhơn. Lúc còn tại thế, Ngài Lê Đạo Long (là thân phụ của tiền bối Lê Văn Lịch) có tiên tri rằng Vĩnh Nguyên Tự sẽ là nơi Thập Nhị Khai Thiên của Đại ĐạoTam Kỳ Phổ Độ đến để hoằng khai chánh pháp.
Tiếp nối đạo nghiệp của thân phụ, tiền bối Lê Văn Lịch (1890-1947) trụ trì Vĩnh Nguyên Tự. Ngày 04-3-1926, quý vị tiền khai Đại Đạo tuân thánh lịnh đến lập đàn cơ tại Vĩnh Nguyên Tự. Đức Như Ý Đạo Thoàn Chơn Nhơn giáng đàn nhắc lại lời tiên tri khi xưa và khuyên môn sanh Vĩnh Nguyên Tự quy hiệp Cao Đài.
Tuân lời dạy, trưởng đồ của Ngài Lê Đạo Long là Thái Lão Sư Trần Đạo Minh (1857-1927) nhập môn Cao Đài, thọ Thiên phong Ngọc Chưởng Pháp và tiền bối Lê Văn Lịch thọ Thiên phong Ngọc Đầu Sư (thánh danh Ngọc Lịch Nguyệt).
Ơn Trên dạy tiền bối Đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt soạn kinh nhựt tụng cho đạo Cao Đài như bài xưng tán Đức Ngọc Hoàng Thiên Tôn (Đại La Thiên Đế Thái Cực Thánh Hoàng…), ba bài kinh xưng tán Tam Giáo Đạo Tổ.
Ngọc Đầu Sư còn được thánh lịnh hướng dẫn tu thiền cho các tiền bối Lê Văn Trung, Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Nguyễn Ngọc Thơ.., góp phần cùng các vị Tiền Khai soạn Tân Luật.
Tại Vĩnh Nguyên Tự, Ơn Trên phong phẩm vị cho một số vị Tiền Khai và ban tịch đạo nam phái.
Vĩnh Nguyên Tự được thánh lịnh tái thiết với nhiều công quả phụ giúp của Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, và đã làm lễ khánh thành năm 1973.
Hiện nay Vĩnh Nguyên Tự là một trong mười tịnh trường tu theo pháp môn thiền do Đức Đông Phương Chưởng Quản truyền dạy Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý. Hàng năm thường xuyên mở bốn khóa tu Xuân Phân, Hạ Chí, Thu Phân và Đông Chí.
2. NGUỒN GỐC TỪ CHI MINH SƯ
a. Thánh thất Ngọc Phước Đàn

Ảnh: Lê Quốc Việt (Hội Thánh Minh Chơn Đạo) 

Ngôi Phật Đường tại ấp Phước Thạnh, xã Phước Long, huyện Phước Long, tỉnh Rạch Giá xưa (nay là tỉnh Bạc Liêu), có trên 15.000 tín đồ được tiền bối Thái Lão Sư Trần Đạo Quang (1870-1946) tạo dựng khoảng năm 1915. Theo sự hướng dẫn của tiền bối Ngọc Chưởng Pháp Trần Đạo Quang, chùa nầy quy hiệp Cao Đài (1928), trở thành thánh thất Ngọc Phước Đàn thuộc Hội Thánh Cao Đài Minh Chơn Đạo. Nhiều vị tu sĩ Minh Sư tại đây đã thọ Thiên phong như: Ngọc Lễ Sanh Nguyễn Văn Cứng (1882-1962) là vị Chánh Trị Sự đầu tiên; Thượng Giáo Hữu Trần Văn Thành…
b. Thánh Tịnh Thanh Quang
Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài có nhiều thánh sở từ chi Minh Sư quy hiệp Cao Đài. Tuân lời dạy của Đức Thái Lão Sư Trần Đạo Quang (1870-1946), tiền bối Nguyễn Quang Châu, một tu sĩ đồng chơn nổi tiếng của Minh Sư, vào ngày 15-11 Giáp Tuất (1934) đã hiến ngôi Đồng Chơn Tự của Minh Sư (nguyên là từ đường của gia đình) làm thánh tịnh Thanh Quang. Đây là thánh sở Cao Đài đầu tiên của bổn đạo Cao Đài miền Trung tại làng La Kham, nay thuộc xã Điện Quang, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, khánh thành ngày 01-6 Ất Hợi (1935).
c. Thánh Thất Trung An


Thánh thất Trung An ở tổ 1, thôn 1, xã Bình Lãnh, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam, nguyên là Tam Giáo Tự của chi Minh Sư tại làng An Tráng, phủ Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam, xây cất từ năm 1924.
Ngày 24-6-1038, chùa nầy quy hiệp Cao Đài và được cải danh thành thánh thất Trung An (Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài).
Năm 1961, thánh thất Trung An được xây đủ Tam Đài.
Năm 1965, vì chiến tranh, bổn đạo dời về Vườn Lài và mấy lần xây cất lại nhưng chưa hoàn tất.
d. Thánh Thất Trung Nguyên


Thánh thất Trung Nguyên (Hội Thánh Truyền Giáo) ở thôn Thăng Trường, xã Bình Phú, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam, nguyên là Đức An Tự của ông Châu Cự, tu sĩ Minh Sư, được xây năm1936.
Năm 1938, bổn đạo Minh Sư chùa Đức An cử hành lễ quy hiệp Cao Đài. Trong đàn cơ sau đó, Thiêng Liêng ban cho tên gọi là thánh thất Trung Nguyên.
e. Thánh thất Hưng Đông


Thánh thất Hưng Đông (Hội Thánh Truyền Giáo) ở thôn Đông Tác, xã Bình Nam, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam, nguyên là chùa Minh Sư Giác Tế Đường.
Năm 1938, Hưng Đông chỉ là thiên bàn tách ra từ thánh thất Trung Nguyên đã dời đổi đôi lần.
Ngày 10-6-1945 (01-05 Ất Dậu), Ơn Trên cho tên gọi là thánh thất Hưng Đông.
Năm 1960, vì chiến tranh khốc liệt, bổn đạo phải tản cư, đến năm 1972 mới trở về.
Năm 1992, xây dựng đủ Tam Đài, khánh thành năm 1995.
f. Thánh thất Trung Hòa


Thánh thất Trung Hòa (Hội Thánh Truyền Giáo) ở thôn 3, xã Tiên Lãnh, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam, nguyên là chùa Bảo Tế (tức Hòa An Tự) ở miền nguồn Quảng Nam, được Ơn Trên ban cho tên gọi là thánh thất Trung Hòa (1938).
Năm 1960, thánh thất được xây dựng đủ Tam Đài nhưng bị sụp đổ toàn bộ trong chiến tranh.
Sau năm 1975, mượn nhà của đầu họ đạo rồi lại mượn nhà của trưởng ban cai quản làm văn phòng thánh thất.
3. NGUỒN GỐC TỪ CHI MINH THIỆN: THANH AN TỰ


Vào những năm đầu thế kỷ 20, được tổ phụ truyền lại, tiền bối Trần Hiển Vinh (1884-1962) làm chủ Thanh An Tự (nay ở số 20 đường Hùng Vương, phường Phú Cường, thị xã Thủ Dầu Một, Bình Dương). Dân địa phương thường gọi đây là chùa Ông Ngựa.
Năm 1917, tiền bối Trần Hiển Vinh cùng anh ruột là Trần Phát Đạt và một số thân hữu như Phan Văn Tý, Lê Văn Hơn, Trần Duy Khánh… lập đàn cầu cơ thỉnh Tiên xin thuốc trị bịnh cho bá tánh. Nơi đây được Ơn Trên ban tên là đàn Minh Thiện, có ông Nguyễn Văn Trượng làm đồng tử.
Năm 1902 và 1919, tiền bối Ngô Văn Chiêu hầu đàn cơ nơi đây, cầu thọ và xin thuốc cho thân mẫu.
Trước đêm trung thu Ất Sửu (1925), tiền bối Cao Quỳnh Cư đến mượn đại ngọc cơ của ông Phan Văn Tý (1888-1962) để hầu Đức Diêu Trì Kim Mẫu trong lễ Hội Yến Bàn Đào đêm trung thu năm ấy.
Sau khi tiền bối Trần Hiển Vinh qua đời (1962), khoảng hai năm sau chùa đổi tên là Minh Chơn. Kế đến, tiền bối Trương Kế An cùng một số đạo hữu hành đạo tại đây, thượng thánh tượng Thiên Nhãn và cúng theo nghi lễ Cao Đài. Các tượng thờ Quan Thánh vẫn giữ nguyên.
Đến năm 1972, tiền bối Trương Kế An bị bệnh, không thường hành đạo tại đây nữa. Chùa trở lại thờ Đức Quan Thánh, nay không còn là thánh sở Cao Đài.
4. NGUỒN GỐC TỪ CHI MINH TÂN: TAM GIÁO ĐIỆN MINH TÂN


Khoảng năm 1917, tiền bối Lê Minh Khá (1868-1946) bệnh nặng, lên Thủ Dầu Một hầu đàn Minh Thiện, được Ơn Trên ban cho bài thuốc chữa lành bệnh.
Năm 1920, căn bệnh tái phát, tiền bối trở lại đàn Minh Thiện xin thuốc, được Đức Quan Thánh Đế Quân giải bệnh và khuyên lo tu hành. Tiền bối về lập một bàn thờ Tam Giáo và chư Tiên Phật tại nhà riêng.
Năm 1921, Ơn Trên dạy lập Cao Thâm Đàn ở vườn cao su tại xã Gia Lộc, quận Trảng Bàng.
Năm 1922, Ơn Trên dạy tiền bối Lê Minh Khá lập Cao Minh Đàn tại nhà (số 236 bến Vân Đồn). Trên bàn thờ có vòng Thái Cực với ngọn Linh Đăng, dưới thờ chư Tiên Phật.
Sau đó, Ơn Trên dạy mua lô đất số 221 Bến Vân Đồn để chuyển Cao Thâm Đàn về, lập thành Cao Tân Đàn.
Năm 1925, Ơn Trên ban lệnh sáp nhập Cao Minh Đàn và Cao Tân Đàn lại thành Minh Tân Đàn. Như thế, chi Minh Tân hình thành.
Ngày 01-11-1926 (26-9 Bính Dần), Đức Thái Thượng Đạo Quân giáng cơ tại Minh Tân Đàn, ban lệnh cho bổn đạo chi Minh Tân quy hiệp Cao Đài.
Ngày 10-11-1926 (06-10 Bính Dần), bổn đạo thượng sớ xin quy hiệp Cao Đài. Từ đây Minh Tân trở thành thánh thất Cao Đài.
Năm 1928, tiền bối Lê Minh Khá cho xây dựng Tam Giáo Điện Minh Tân, khánh thành năm 1930. Cao Tân Đàn giải thể, các linh vị được chuyển qua Minh Tân.
Tháng 8-1951, Ban Chưởng Quản Cơ Quan Cao Đài Qui Nhứt được Ơn Trên dạy dời văn phòng từ Liên Hoa Đàn (của tiền bối Cao Sĩ Tấn, ở số 18 đường Testard, nay là Võ Văn Tần) về Tam Giáo Điện Minh Tân.
Cuối năm 1952, Cơ Quan Cao Đài Qui Nhứt được cải danh thành Cơ Quan Cao Đài Thống Nhứt.
Tháng 10-1953, Ban Chưởng Quản Cơ Quan Cao Đài Thống Nhứt được công cử gồm đại diện mười một chi phái và nhiều nhân sĩ đạo tâm uy tín.
Năm 1956, Ơn Trên dạy cải danh xưng Cơ Quan Cao Đài Thống Nhứt là Ban Vận Động Cao Đài Thống Nhứt.
Năm 1962, Ơn Trên dạy thành lập Ban Phổ Thông Giáo Lý nhằm chuyển hướng hoạt động Ban Vận Động Cao Đài Thống Nhứt.
Năm 1963, thành phần thuận tùng thánh ý quyết định tách ra, về chờ lịnh tại Thiên Lý Đàn ở số 278 Lê Văn Duyệt (nay là đường Cách Mạng Tháng Tám, Hòa Hưng).
Từ năm 1964 đến tháng 4-1975, Minh Tân là trụ sở của Giáo Hội Cao Đài Thống Nhất. Sau đó, Giáo Hội Cao Đài Thống Nhất giải thể. Ngày nay Tam Giáo Điện Minh Tân vẫn còn sinh hoạt tôn giáo trong các ngày lễ và sóc vọng và liên giao hành đạo với các thánh sở bạn. Nghi thức thờ cúng vẫn giữ theo đạo Cao Đài.
5. NGUỒN GỐC TỪ PHẬT GIÁO CỔ SƠN MÔN: THÁNH THẤT TỪ VÂN

Thánh thất Từ Vân, Phú Nhuận (Ảnh: Mai Thị Hạnh)

Thánh thất Từ Vân nguyên là Từ Vân Tự, là một cổ tự của Phật Giáo Cổ Sơn Môn do Hòa Thượng Từ Vân, thế danh Trần Văn Dõng (1854-1904), xây dựng năm 1904 tại Phú Định, Chợ Lớn, được Yết Ma Trần Văn Mau kế thừa.
Năm 1924, Từ Vân Tự (một ngôi nhà ngói ba gian hai chái, kiến trúc theo lối cổ) được dời về Phú Nhuận (nay ở số 100 Thích Quảng Đức).
Năm 1935, Yết Ma Trần Văn Mau giao cho cháu là Trần Văn Sanh (1886-1968) và Trần Văn Tình giữ chùa với lời dạy: hoặc nhập chung theo Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ mà thờ cúng thì tôi bằng lòng không có điều chi ngăn trở.
Ngày 26-7-1938, các vị Trần Văn Sanh, Trần Thị Nguyên và Trần Văn Tình lập văn bản hiến Từ Vân Tự cho Đại Đại Tam Kỳ Phổ Độ. Tiền bối Phối Sư Lê Văn Hóa thay mặt Hội Thánh Cao Đài Tây Ninh đứng ra tiếp nhận với sự chứng kiến của tiền bối Thượng Sanh Cao Hoài Sang. Từ đó chùa đổi tên là thánh thất Từ Vân.
Thánh thất Từ Vân từng là nơi hành đạo của tiền bối Thượng Sanh Cao Hoài Sang cùng các vị Thời Quân Hiệp Thiên Đài Tòa Thánh Tây Ninh. Đây cũng là nơi đã tiếp nhận nhiều đàn cơ quan trọng liên hệ đến việc xây dựng Trung Hưng Bửu Tòa của Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài tại Đà Nẵng.
Ngày 28-9-1953, các bậc tiền bối của cơ đạo miền Trung đã mượn nơi đây hội họp hai mươi đại biểu của các thánh thất miền Trung và đồng thanh quyết nghị tái lập Cơ Quan Truyền Giáo Cao Đài, tiền thân của Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài ngày nay.
Quý vị tiền bối Huệ Lương (Trần Văn Quế), Thanh Long (Lương Vĩnh Thuật), Trần Quốc Luyện, Trần Cư … từng làm việc tại thánh thất Từ Vân để xuất bản nguyệt san Nhân Sinh (số đầu tiên ra ngày 15-9-1954).
Năm 1956 tại thánh thất Từ Vân đã thành lập họ đạo Nam Phần của Hội Thánh Truyền Giáo, tiền thân của họ đạo Trung Minh ngày nay.[2]
Năm 1991, bổn đạo thuộc xã đạo Phú Nhuận của họ đạo Trung Minh xin tách riêng và thành lập họ đạo Từ Vân.
Ngày 22-9-1991, Lễ Sanh Thái Thoại Thanh (1919-2002) gởi đạo văn xin Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài yểm trợ việc sinh hoạt tu học cho thánh thất Từ Vân, và ngày 27-3-1993 lại xin Hội Thánh chấp thuận cho họ đạo Từ Vân được vào hệ thống Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài.
Năm 2009, khánh thành thánh thất Từ Vân cất mới.
Trong nhiều năm qua, thánh thất Từ Vân là nơi trợ giúp nhiều sinh viên Cao Đài ở các tỉnh về TpHCM trọ học. Đây cũng là nơi đặt văn phòng đại diện của Hội Thánh tại TpHCM.
6. NGUỒN GỐC TỪ PHẬT GIÁO: VẠN QUỐC TỰ
Tổ đình Vạn Quốc Tự do Sư Bà Diệu Lộc thành lập năm 1930 tại xã Phú Hưng, thành phố Bến Tre ngày nay. Sau khi Sư Bà Diệu Lộc quy liễu, Ni Trưởng Diệu Minh (1906-1986) kế nghiệp.
Năm 1934, Ni Trưởng Diệu Minh nhập môn Cao Đài tại Giồng Bốm (Bạc Liêu) trong dịp Hội Thánh Cao Đài Minh Chơn Đạo mở đại lễ.
Năm 1948, Ơn Trên dạy Ni Trưởng Diệu Minh lên Sài Gòn tìm mua đất.
Năm 1950, thành lập Vạn Quốc Tự Đô Thành dành cho phái nữ (còn gọi chùa Nữ Giới) trên đường Phan Thanh Giản, nay ở số 378/5 Điện Biên Phủ, quận 10, Tp.HCM.
Chánh điện Vạn Quốc Tự Đô Thành thờ Thiên Nhãn, phía đối diện thờ Đức Diêu Trì Kim Mẫu. Vạn Quốc Tự (được Ơn Trên đặt tên là Chơn Lý Đàn) có lập đàn cơ và thường được Đức Mẹ giáng cơ dạy Đạo. Vào trung thu Kỷ Dậu (1969), văn phòng Nữ Chung Hòa Đại Đạo thuộc Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý được đặt tại Vạn Quốc Tự.
Ngày 31-12-1972, Ni Trưởng Diệu Minh Võ Duy Nhứt gởi đạo văn số 0190/VQT-ĐT cho Hội Thánh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Tòa Thánh Tây Ninh, xin hiến Vạn Quốc Tự do Ni Trưởng đứng bộ. Với công đức nầy, Tòa Thánh Tây Ninh phong phẩm Đạo Nhơn (tương đương phẩm Giáo Sư) cho Ni Trưởng ở Hội Thánh Phước Thiện. Nhưng sau đó không có thống nhất về một số vấn đề nên Vạn Quốc Tự vẫn không thuộc về Hội Thánh Cao Đài Tây Ninh. Từ ngày 26-3-2011, Vạn Quốc Tự do Nhà Nước quản lý.
ĐẠT TRUYỀN
Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo



[1] Chi Minh Lý (Tam Tông Miếu, Minh Lý Thánh Hội) hiện nay ở số 82 đường Cao Thắng, quận 3, TpHCM. Chi Minh Lý rất gần gũi với đạo Cao Đài. Ngay từ lúc mới khai đạo Cao Đài, vào ngày 28-6 Bính Dần (06-8-1926) thánh giáo Minh Lý dạy quý vị môn sanh của chi này phải soạn đủ 12 quyển kinh Sám Hối chuẩn bị truyền cho người thỉnh kinh. Cùng trong tháng 8-1926, các tiền bối Lê Văn Trung, Lê Văn Lịch, Vương Quan Kỳ được thánh lệnh đi thỉnh kinh tại Minh Lý. Lúc ấy Minh Lý tạm đặt nơi nhà riêng tiền bối Âu Minh Chánh.
Mỗi năm hai lần vào Hạ Chí và Đông Chí, Minh Lý Thánh Hội có mời tịnh viên của Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo, Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài và Hội Thánh Tiên Thiên … ra Bác Nhã Tịnh Đường ở Long Hải (Bà Rịa - Vũng Tàu) để cùng tịnh chung. Minh Lý Thánh Hội, Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài, và Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý từng tổ chức cùng học Kinh Dịch.
[2] Năm 1965, Họ Đạo Trung Minh dời về địa điểm như hiện nay: số 609-611 đường Bình Thới, quận 11, TpHCM.