THI
Tu đi cho cạn nỗi căm hờn
Tu để giảm lần sự bất nhơn
Tu để đệ huynh như ruột thịt
Tu đi, siết chặt mối tình thương!
THI
BÀI
Cuộc biến chuyển tuần huờn đã định
Luật công bình điều chỉnh thế gian
Xuống lên địa ngục, thiên đàng
Thương người giữa trần ai bao phủ
Thương nên khuyên nhủ hãy ghi vào lòng.
Đã trót sanh trong vòng thế tục
Hỡi ai! Ai
xử sao tròn
Khi tình
cốt nhục không còn thương yêu?
Kiếp nhơn
sanh một chiều một sớm
Điêu ngoa
mặt trái Hớn, Hồ
(…)
Kìa chánh
đạo đang suy chánh pháp
Quanh chủ tướng, một lũ hề
Vẽ vời rồng rắn toan bề nhiễu nhương.
Hỡi ai chán nghề vương nghiệp bá
Mà mong thiên hạ an bình
Hãy đem đạo đức gây tình chúng sanh.
Khắp vũ trụ Trời dành non nước
Chẳng phải tài với sức được đâu
Khuyên hãy giữ lập trường chánh đạo
Khuyên chư đệ trên đường tu niệm
Hằng ngày
luôn kiểm điểm thân tâm
Cũng là
điều lành dữ nghiệp duyên
Muốn về
cảnh Phật nhà Tiên
Nay trả nợ vì xưa vay nợ
Trước chưa tu,
sau nhớ mà tu
Một niềm
tin Đạo Trời cứu thế
Giữ chánh
truyền, luật lệ nghiêm minh
Vô vi đề cập hữu hình
(...)
THI
Công quả dành cho các đạo tâm
Ráng lên lập đức khỏi sai lầm
Một kiếp trau dồi
hưởng vạn năm.
THI
BÀI
Hãy hỷ lạc mà tầm
chánh tín
Hít hà chi phú vịnh ca văn
Hãy liên kết bạn bè học Đạo
Hãy sưu tầm thánh giáo nhủ khuyên
Đâu đâu thì cũng Phật Tiên
Hoặc mê hoặc tỉnh, linh thiêng bởi
mình.
Đó là phương pháp cao dày
THI
Ơn Trời bủa khắp chẳng riêng ai
Tùy đức tùy công mỏng với dày
NGÂM
Lời Tiên dạy bảo khá dài
Ban ơn từ giã, Tiên đài đây lui.
Đức ĐÔNG PHƯƠNG CHƯỞNG QUẢN
Thiên Lý Đàn, 15-12 Giáp Thìn (17-01-1965)
[1] Lẽ
hằng: Lẽ thường, nguyên lý bất di bất dịch tự
nhiên của đất trời (permanent principle).
Dù con người muốn hay không muốn thì nó vẫn diễn ra.
[2] Phong vũ (võ) 風雨: Gió và mưa, ám chỉ cảnh gian nan, khốn khổ, đầy
thử thách (trials and hardship).
[5] Ờ ỡm:
Ỡm ờ, nói năng không nghiêm túc, không tin được.
[9] Bả: Mồi độc để nhử (poison
bait). Bả lợi danh: Danh lợi cám
dỗ con người phạm lỗi, trái đạo lý, nên danh lợi giống như mồi độc.
[10] Dân thứ, công hầu: Dân thường và quan chức lớn.
[11] Cơ tiền định: Thiên cơ (kế hoạch của Trời) đã sắp đặt sẵn.
[12] Âu: Lo toan, lo lắng, âu lo (to
worry).
[13] Tiết tháo 節操: Lòng
trong sạch, ngay thẳng, không vì nguy khốn, danh lợi mà thay lòng đổi dạ (integrity, moral principle).
[14] Lương tri 良知: Lương tâm, tánh thiện tự
nhiên như bản năng (conscience,
instinctive moral sense).
Bá Di
伯夷 và Thúc Tề 叔齊 là con vua Á Vi 亞微 nước Cô Trúc (là chư hầu của vua Trụ nhà Thương). Khi
Cơ Phát 姬發 mang quân đánh Trụ, hai anh em Bá Di và Thúc
Tề cùng can gián, cho rằng Cơ Phát bất trung với nhà Thương (!). Cơ Phát lên
ngôi thiên tử, lập ra nhà Chu, tức là Chu Vũ Vương. Bá Di và Thúc Tề xấu hổ vì
đã can ngăn Cơ Phát diệt Trụ, nên thề không ăn thóc nhà Chu, bỏ lên núi Thú
Dương ở ẩn, hái rau vi ăn. Có người bảo rau vi cũng mọc trên đất nhà Chu, hai
ông bèn nhịn đói chịu chết trên núi Thú Dương. Văn học dùng hình tượng Bá Di,
Thúc Tề để nói tới việc ở ẩn; và dùng hình tượng rau vi để nói tới tiết tháo của
kẻ sĩ.
[22] Oan khiên 冤牽: Oan nghiệp 冤業, oan nghiệt 冤孽, những điều ngang trái dẫn dắt đến chỗ tội lỗi (injustice leading to sin).
[23] Bốn
vách trần tù: Tứ đổ (tứ đổ tường) 四堵牆(墻); bốn thứ giam hãm
con người, khiến con người mất tự do, giống như bị nhốt trong bốn vách (đổ và tường đều có nghĩa là vách tường). Đó là Tửu, sắc, tài, khí 酒色財氣 – rượu, sắc dục, tiền bạc, và ma túy (alcohol, sex, money, drugs).
[24] Trí
ngu: Khôn dại (wise or dull).
[25] Song
tu tánh mạng: Tánh mạng (tính mệnh) song tu 性命雙修, tu tánh (tính) luyện mạng
(mệnh) 修性煉命. Tu
tánh là tu tâm, bỏ thât tình lục dục, hành thiền (luyện thần), luyện mạng là dưỡng
thân, đoạn trừ sắc dục (giữ gìn tinh, khí).
[27] Tâm
hằng: Bền lòng, không thay lòng đổi dạ (consistent).
[29] Muôn
hình vạn trạng: Cũng như thiên hình vạn trạng 千形萬狀 – vô số hình dạng (multitude of forms).
[31] Tùy
duyên hóa độ 隨缘化度: Tùy theo hoàn cảnh thích hợp mà giúp người bước vào đường tu hành (to convert a person to a religion depending
on appropriate circumstances).
[32] Dụ
dự: Do dự, chần chờ (to hesitate).
HUỆ KHẢI & LÊ ANH MINH chú thích