Chủ Nhật, 31 tháng 1, 2016

ĐĐVU 02 / THÁNH TỊNH MINH KIẾN ĐÀI / Thanh Căn



I. THỜI KỲ PHÔI THAI (1927-1929)
Trong những năm đầu mở đạo Cao Đài, tại Bến Cát thuộc quận Gò Vấp, tỉnh Gia Định, có ông bà Huỳnh Văn Phát kinh doanh lúa gạo, lập nhà máy xay xát. Hai vị rất mộ đạo, thường đến dự đàn cơ tại các đàn ở Cầu Kho (Sài Gòn, của tiền bối Đoàn Văn Bản) và Xóm Gà (Gia Định, tức Huỳnh Long Phủ của tiền bối Lê Kim Tỵ).
Tuân theo thánh lịnh, tiền bối Huỳnh Văn Phát (1864-1946) muốn tìm một địa điểm thích hợp để lập nhà đàn.
Biết được thành ý của Huỳnh tiền bối, ông Lê Văn Bằng ở xã Hạnh Thông Tây tự nguyện cho mượn ngôi nhà ngói ba căn hai chái để làm ngôi thờ tạm. Mỗi kỳ sóc vọng thu hút khá đông người đến lễ bái, nhập môn, và hầu đàn cơ.
Trong ba năm, bổn đạo nhập môn càng đông mà ngôi nhà thì nhỏ, nên ông Bằng bàn với tiền bối Huỳnh Văn Phát và một số đạo hữu, đề nghị sang nhượng lại ngôi nhà ba gian hai chái liền cùng lô đất 48m x 38m với giá năm trăm đồng (500đ).
II.THỜI KỲ KHAI PHÁT (1929-1945)
Năm 1929, ngôi nhà và lô đất được sang tên cho tiền bối Huỳnh Văn Phát đứng tên xin xây cất. Tạm thời ngôi nhà được cơi nới rộng thêm bằng cột cây, mái lá để bổn đạo dễ dàng lễ bái. Vài năm sau, với sự trợ giúp của hai tiền bối Lê Kim Tỵ, Huệ Lương Trần Văn Quế, nhiều đạo hữu cùng đóng góp kẻ công người của lo xây cất thánh tịnh bằng vật liệu kiên cố. Lúc này danh xưng thánh tịnh là Minh Kiến Đàn.
Các vị khởi công xây cất chánh điện dài 24m, rộng 10m. Lại chia ra ba gian để phân thành tam ban: chánh ban 4m, tả ban 3m, hữu ban 3m. Cột đúc bê tông cốt sắt. Có một tầng lầu để thờ Thầy, đầy đủ Tam Đài. Tầng dưới làm Thiên Phong Đường và nơi thờ các vị tiền vãng. Phía sau làm trù phòng…
Mặc dù rất bận rộn với việc tạo tác ngôi thánh tịnh Minh Kiến Đàn, tiền bối Huỳnh Văn Phát vẫn nhiệt tâm tuân hành thánh lịnh lên đường ra Trung hành đạo. Tiền bối đến Đà Nẵng nhằm khích lệ, cổ vũ tinh thần bổn đạo Trung Kỳ đang xây dựng thánh thất Trung Thành để chuẩn bị mở Đại Hội Long Vân Đệ Bát theo lịnh dạy của Ơn Trên tại Liên Hòa Tổng Hội.
Trong chuyến đi Trung, tiền bối mang theo một đồng tử 14 tuổi, một số kinh sách Cao Đài. Hai người con của tiền bối là Huỳnh Văn Hải và Huỳnh Văn Hay đã hộ trợ tích cực cuộc hành trình ấy.
Từ miền Trung trở về, Huỳnh tiền bối tiếp tục dồn hết tâm sức vào việc xây dựng ngôi thánh tịnh, cho kịp ngày lễ lạc thành và Đại Hội Minh Cảnh Huỳnh Khai theo lịnh dạy.
Thơ mời dự lễ đăng trên tập san Đại Đạo Qui Nguyên Lược Luận (số 12 năm 1938) như sau:
CAO ĐÀI ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
Đệ thập tam niên
MINH KIẾN ĐÀN
Kính thỉnh . . .
Chúng tôi là Ban Hành Sự, vâng lịnh ĐỨC CHÍ TÔN dạy đến ngày mồng 1, mồng 2, mồng 3, tháng Bảy trước, năm Mậu Dần (nhằm ngày 27-28-29 Juillet 1938) lập tam nhựt Đại Hội gọi là Minh Cảnh Huỳnh Khai và lễ lạc thành.
Vậy chúng tôi kính thỉnh quý ông, quý bà Thiên phong chức sắc, quý chị đạo đức, cùng quý em thanh xuân trong ba ngày ấy dời gót đến Minh Kiến Đàn ở tại Hạnh Thông Tây (Gò Vấp) đặng hiệp cùng chúng tôi trước đảnh lễ Đức Chí Tôn cùng chư Phật, Thánh, Tiên sau cầu an cho bá tánh. Chúng tôi rất hân hạnh (Đức Khương Thái Công có dạy chúng tôi không nên thâu tài vật).
Nay kính thỉnh
Ban Hành Sự Minh Kiến Đàn
Đường đi: Tại gare xe lửa Hạnh Thông Tây theo đường hông chợ đi vô 1 cây số, còn đi xe ngựa thì 5 xu.
*
Sau đó, Đại Đạo Qui Nguyên Lược Luận (số 12 bis) đăng tin dưới đây:
ĐẠI HỘI MINH CẢNH HUỲNH KHAI
Đại Hội Minh Cảnh Huỳnh Khai vừa rồi ở Minh Kiến Đàn dưới quyền sắp đặt của ông bà Huỳnh Văn Phát và Ban Hành Sự ở đấy, được kết quả hết sức mỹ mãn. Trong mấy ngày ấy có gần đủ mặt đại biểu các chi phái, chủ thánh thất, thánh tịnh các nơi tề tựu lại để bàn bạc về cơ quy nguyên.
Nơi đó Ơn Trên lại có cho ra một quyển kinh, hiệu là THÁNH ĐỨC CHƠN TRUYỀN, được các nhà hảo tâm ấn tống 2.000 cuốn, phân nửa phát ra trong ba ngày lễ, phân nửa có lịnh dạy sẽ gởi ra thánh thất Trung Thành ngoài Tourane [Đà Nẵng] cho quý đồng đạo ngoài đấy.
Thiệt là:
THƯỢNG hành hạ hiệu đô công quả
ĐẾ đạo hoằng khai chiếm thượng phong.
*
Đến ngày 6-7-8 tháng 10 Đinh Sửu (8-9-10 tháng 11 năm 1937), đại diện Minh Kiến Đàn là tiền bối Huỳnh Văn Hải đi dự Huyền Linh Hội tại thánh tịnh Trần Đoàn (Sóc Trăng) theo lịnh Ơn Trên. Đại Đạo Qui Nguyên Lược Luận (số 10, năm 1938, tr. 32) đưa tin:
Mấy vị đại biểu Liên Hòa Tổng Hội là ông huyện Nguyễn Văn Đước, ông ký Phan Trường Mạnh và ông Hải là chủ tịnh Minh Kiến, đến tại Trần Đoàn.
Liên Hòa phái [1] đại biểu dự hội nầy là bởi có được huyền linh lịnh Ơn Trên do Minh Kiến Đàn truyền đến. Dạy rằng đại biểu đến đó thì có mặt mười chủ tịnh Hậu Giang hiệp nơi ấy mà tiếp rước. Thật quả vậy, là khi đại biểu Liên Hòa đến nơi thì có anh em của thập tịnh Hậu Giang đem ghe đón rước và nói:
“Có lịnh dạy anh em chúng tôi lập hội, mà không cho mời ai hết, để tự nhiên Ơn Trên dùng huyền linh chuyển có người đến dự hội. Nay thật quả có vậy. Chúng tôi lấy làm hết sức mừng!”
Bắt đầu từ sau Đại Hội, cơ đạo tại Minh Kiến Đàn phát triển. Mỗi kỳ sóc vọng bổn đạo về lễ bái rất đông, công cuộc phổ độ dìu dẫn nhơn sanh tu hành diễn tiến trong an bình và thuận lợi. Có lẽ danh xưng Minh Kiến Đàn được đổi thành Minh Kiến Đài trong khoảng thời gian nầy.
III.THỜI KỲ THỬ THÁCH (1945-1954)
Tháng 9 năm 1945, quân Pháp được sự hậu thuẫn của liên quân Ấn Độ, Anh và Nhựt, đã trở lại xâm lược nước ta lần nữa. Các yếu điểm quanh quận Gò Vấp như Cầu Bến Phân, Ga Xóm Thơm, Ngã Ba Chú Ía, Cầu Hang Dưới, Vũng Bèo… do các lực lượng dân quân kháng chiến gìn giữ. Nhưng với thế mạnh lấn át, quân Pháp đã làm chủ tình hình, sau đó ra sức khủng bố những người kháng chiến. Tiền bối Tư Oanh là thủ tự ở thánh tịnh Minh Kiến Đài cũng bị giặc bắt đi mất tích.
Các thánh thất, chùa chiền có gắn chữ Vạn trên nóc đều bị giặc phá sập. Về phần thánh tịnh Minh Kiến Đài, lính Pháp đem bốn xe GMC đến, cột dây cáp kéo giật mà không sập. Rốt cuộc, giặc dùng búa đập phá tan hoang, chỉ còn trơ lại sườn cốt thép.
Chiến tranh còn tiếp diễn nên bổn đạo ly tán. Ngôi thánh tịnh đành để hoang phế, cỏ mọc um tùm, dây leo chằng chịt.
IV.THỜI KỲ TÁI TẠO (1955-1956)
Sau Hiệp Định Genève (1954), đất nước tạm chia đôi. Dân chúng lần lượt trở về, cố tìm cách ổn định cuộc sống.
Bấy giờ, ông Cả Dưỡng tức tiền bối Liêm Trinh Tinh (Trần Văn Dưỡng, 1907-1980), tiền bối Nữ Đầu Sư Thanh Thủy Tiên cùng với các tiền bối Huỳnh Đức (Phan Khắc Sửu, 1905-1970), Huỳnh Văn Hải, Thanh Sơn, Bạch Lan Tiên (Tô Thị Nuôi), Ngọc Phối Sư Bửu Minh Tinh (Nguyễn Văn Bi, sinh năm 1924) họp bổn đạo lại bàn bạc việc tái thiết thánh tịnh. Tiền bối Huỳnh Đức đại diện bổn đạo đứng tên làm đơn xin phép chánh quyền trùng tu thánh tịnh.
Lần nầy xây dựng chánh điện (Tam Đài) trước Thiên Phong Đường. Sau đó lần lượt xây thêm hai bên Đông Lang, Tây Lang. Phía sau có nhà ngang như hình chữ U bao bọc ba phía chánh điện.
Ngày 13-8-1956, tổ chức lễ lạc thành thánh tịnh Minh Kiến Đài trong ba ngày. Bổn đạo Tam Giang [2] về dự đông đủ. Trong dịp nầy hài cốt của tiền bối Ngọc Chưởng Pháp Trần Đạo Quang cũng được di táng ở phía sau thánh tịnh.[3]
Sau cuộc lễ, đến Đông Chí Ơn Trên dạy mở khóa tịnh 100 ngày. Rồi cứ như thế, mỗi năm hai lượt Đông Chí và Hạ Chí đều mở khóa tu tịnh (thiền) quy tụ được nhiều người học tu chơn đạo.
Đàn cơ giờ Dần, ngày 19-12 Bính Thân (19-01-1957), Đức Chí Tôn giáng cơ ban ơn cho tịnh viên như sau (trích):
Nầy hỡi trẻ Tiền Giang Minh Kiến
Mừng mỗi con u hiển phân minh
Từ nầy hòa hiệp trọn xinh
Tiền, Trung, Hậu lý dĩ kinh dĩ quyền.
Nêu hai chữ Cao Đài liên hiệp
Hòa nơi tâm gặp dịp khoa kỳ
Con ôi, đạo đức duy trì
Lý chơn khải ngộ Tam Kỳ trọn nên.
Thầy mừng thấy xây nền thống nhứt
Là mỗi con tri thức nguồn chơn
Vui sanh Đạo cả cao sơn
Mỗi con hòa hiệp hóa nhơn [4] độ đời.
Độ dân chúng thuận thời xuôi vận
Độ đời thanh gầy dựng một tòa
Cùng nhau chung hiệp đạo nhà
Gầy nên cương kỷ trọn hòa phát sinh.
Cũng trong năm 1956, Hội Thánh Liên Chi Tiền Giang được thành lập, trụ sở đặt tại thánh tịnh Minh Kiến Đài với thành phần lãnh đạo tinh thần nòng cốt như các vị Bạch Lan Tiên (Tô Thị Nuôi), Thiên Vọng Tinh (Võ Văn Truyện), Tĩnh Tâm (Phạm Thành Mai), Thiên Kỉnh Tinh (Lê Văn Cang)...
Nội quy Hội Thánh căn cứ theo Tân Luật và Pháp Chánh Truyền. Đến năm 1974, văn phòng Hội Thánh Tiền Giang dời về thánh thất Nam Thành (Nguyễn Cư Trinh, quận 1).
Thánh tịnh Minh Kiến Đài lúc bấy giờ còn lại một số vị lo củng cố lại cơ cấu hành chánh. Các vị Thanh Thủy Tiên (Phạm Thị Đời), Bạch Lan Tiên, Mười Thơm, Mười Quí, Bảy Cường đứng ra thành lập Ban Cai Quản lâm thời. Tuy không đủ thành phần nhân sự theo quy định, nhưng cũng có thể điều hành việc đạo địa phương được trôi chảy. Ban Cai Quản lâm thời gồm có: Trần Ngọc Điền (Hội Trưởng); Huỳnh Văn Huyện (Phó Hội Trưởng); Địa Tráng Tinh tức Lê Ngọc Rảnh; Ngọc Giáo Sư Đào Công Lộc (Từ Hàn, sinh năm 1953)…
Nhận thấy cần phát huy cơ đạo tại Minh Kiến Đài, nên Ban Cai Quản cùng bổn đạo xin gia nhập về Hội Thánh Tiên Thiên, và được Hội Thánh chấp nhận.
Mọi công việc hành chánh trong ngoài của thánh tịnh đều do hai vị Địa Tráng Tinh (Lê Ngọc Rảnh) và Đào Công Lộc giúp sức. Về phái nữ có các hiền tỷ Phạm Thị Tải (tự Huệ, Trưởng Giáo Nhi), Đào Thị Sen (Trưởng Phòng Trù)…
Năm 1975, hiền huynh Địa Tráng Tinh (Lê Ngọc Rảnh) hiệp cùng Ngọc Phối Sư Nguyễn Văn Cường (1923-2005) mở phòng thuốc nam phước thiện giúp bệnh nhân nghèo quanh vùng thánh tịnh.
Lúc này chánh điện xuống cấp, Đông và Tây Lang bị sập. Chị lớn Thanh Thủy Tiên và bổn đạo cùng lo việc tu bổ, xin phép chính quyền địa phương cho bổn đạo được cúng sóc vọng hằng tháng và tổ chức bầu Ban Cai Quản...
V.THỜI KỲ HOÀN NGUYÊN
Thánh tịnh Minh Kiến Đài hoàn nguyên về Hội Thánh Cao Đài Tiên Thiên ngày 15-12 Mậu Dần (13-01-1998). Về hành chánh, lập lại Bộ Đạo, Bộ Chức Sắc, bầu cử Ban Cai Quản, Ban Trị Sự và Bốn Phòng…
Công trình xây dựng trước đây đã xuống cấp trầm trọng: Chánh điện bị thấm nước hư dột; cột kèo Thiên Phong Đường, trù phòng hư mục; mái tôle bị tốc khi có gió giông. Nhờ nhiệt tâm công quả của Ban Cai Quản và bổn đạo cùng lo tu sửa, bồi bổ nên ngôi thánh tịnh lần hồi được khang trang, đầy đủ tiện nghi. Thánh tịnh được chọn làm nơi đặt Văn Phòng Ban Đại Diện Hội Thánh Cao Đài Tiên Thiên.
Sau khi tiền bối Địa Tráng Tinh (Lê Ngọc Rảnh) quy thiên ngày 23-7 Kỷ Mão (02-9-1999), Ban Cai Quản đầu tiên được suy cử gồm các vị: Ngọc Phối Sư Nguyễn Văn Cường (Đầu Họ Đạo); Nữ Đầu Sư Thanh Thủy Tiên (Phạm Thị Đời, 1910-2000) làm cố vấn; Huỳnh Văn Lực (Hội Trưởng); Thanh Nhã (Quách Thị Viện) làm Phó Hội Trưởng.
Ngọc Phối Sư Nguyễn Văn Cường (Đầu Họ Đạo) mở phòng thuốc nam từ thiện, bệnh nhân càng ngày đông vì được điều trị hiệu quả. Về khai minh giáo lý, có Thượng Phối Sư Bửu Lãng (sinh năm 1920) thường xuyên mở đạo tràng cho chức sắc, chức việc và bổn đạo học giáo lý.
Tiếp theo nhiệm kỳ II (2000-2005) và nhiệm kỳ III (2005-2010), hiện nay Ban Cai Quản và Ban Trị Sự nhiệm kỳ IV (2010-2015) gồm các vị như sau:
Chánh Hội Trưởng: Ngọc Giáo Hữu Trần Văn Đức Anh (sinh năm 1953).
Năm vị Phó Hội Trưởng: Giáo Hữu Thanh Nhã (Quách Thị Viện, sinh năm 1930); Thái Lễ Sanh Lê Hồng Quang (sinh năm 1942); Lễ Sanh Lê Ngọc Ánh (sinh năm 1938); Lễ Sanh Lê Thị Ngọc Nữ (sinh năm 1951); Lễ Sanh Ngô Thị Thu Loan (kiêm Từ Hàn, sinh năm 1957).
Chánh Trị Sự: Lễ Sanh Đào Văn Thịnh (sinh năm 1957).
Thông Sự: Lễ Sanh Thanh Châu Huỳnh Văn Nghĩa (sinh năm 1946).
Truyền Trạng THANH CĂN
Hội Thánh Cao Đài Tiên Thiên


[1] Phái: Cử, sai người đi.
[2] Tam Giang: Tiền Giang, Hậu Giang, và Trung Giang (ở giữa Tiền và Hậu Giang).
[3] Hiện nay, sau khi cải táng, đã chuyển di cốt tiền bối Trần Đạo Quang về Linh Quang Tự (Gò Vấp) và dựng tháp.
[4] Hóa nhơn: Giáo hóa nhân sinh.