Thế giới sẽ đi về đâu? Nhân loại rồi
có bị tận diệt không? Những câu hỏi đại loại như thế trước đây khoảng chừng
trăm năm, khi nền khoa học - kỹ thuật của thế giới đang trên đà tiến bộ vượt
bực, có không ít người, vì tự mãn vào sự thành công của khoa học, đã xếp chúng
vào loại thắc mắc ngớ ngẩn, hoặc chỉ có tính cách mê tín của một số tín đồ tôn
giáo nào đó. Người ta nói đến trận Đại Hồng Thủy, đến Hội Long Hoa… nhưng không
có căn cứ khoa học nào để xác định, nên thường được hiểu như là một cách khuyến
dụ sự tu hành, theo kiểu “tu mau kẻo trễ” của vài tôn giáo hiện hữu.
Tại Việt Nam , Giáo Chủ đạo Hòa Hảo đã từng
đề cập đến hội Long Hoa trong kỳ hạ nguơn mạt pháp. Còn ở đạo Cao Đài, vấn đề
này cũng được nói rõ hơn trong kinh Đại
Thừa Chơn Giáo, đại khái cho biết:
“Đạo có ba nguơn, ba nguơn ấy là cái số cuối cùng của trời đất.
Trước hết, mở đầu là THƯỢNG NGUƠN. Thượng nguơn đây chính là nguơn TẠO HÓA, là
nguơn đã gầy dựng cả càn khôn võ trụ. Vậy khi mới tạo thiên lập địa, nhơn loại
sanh ra thì tánh chất con người rất đỗi hồn hồn ngạc ngạc, còn đang thuần phác
thiện lương, nên chi cứ thuận tùng Thiên lý mà hòa hiệp dưới trên, tương thân
tương ái. Thời kỳ ấy người người đồng hấp thụ khí thiên nhiên, nên hằng cộng
hưởng thanh nhàn khoái lạc mà vui say mùi Đạo tháng ngày. Bởi đó, đời thượng cổ
mới có danh là đời THƯỢNG ĐỨC, mà thượng nguơn ấy cũng kêu là nguơn THÁNH ĐỨC
nữa.
Kế đó bước qua TRUNG NGUƠN thì nhơn tâm bất nhứt, tập quán theo
thói đời, thâm nhiễm những nết xấu mới làm cho xa mất điểm thiện lương, bèn cậy
ở sức mình mà hiếp bức lấy nhau, chém giết lẫn nhau, tương sát tương tàn, mạnh
còn yếu mất thì mới sanh ra biết bao trường huyết chiến, không còn kể đồng loại
đồng chủng, đã lợt tình đồng nghĩa đồng bào. Bởi đó, đời trung cổ mới có danh
là đời THƯỢNG LỰC, mà trung nguơn ấy cũng kêu là nguơn TRANH ĐẤU nữa.
Tiếp đến HẠ NGUƠN, sự tranh đấu ngày càng ráo riết, dữ tợn, gớm
ghê thì nhơn loại lại chê sức mạnh mà dùng não cân nên mới bày ra chước quỷ mưu
tà, kế sâu bẫy độc, thiệt là khốc liệt phi thường. Song đó cũng lẽ tự nhiên,
càng tranh đấu mới càng tấn hóa. Ngặt càng tranh đấu lắm lại càng ác liệt lắm,
nên tranh đấu thét phải đến ngay thời kỳ tiêu diệt. Bởi đó, đời hiện tại là đời
MẠT KIẾP, còn hạ nguơn nầy là nguơn ĐIÊU TÀN.
Nhưng hễ loạn là tới trị, vong tất phục hưng, nên nguơn tiêu diệt
tất sẽ bước đến nguơn bảo tồn là nguơn đạo đức phục hưng, để sắp lập lại như
đời thượng cổ, thế nên cũng gọi là nguơn TÁI TẠO.” [1]
Hội Ngày Tận Thế (Mạt Thế Hội, End Time Ministries) là một đoàn thể tôn
giáo mới do Charles Meade (1916-2010) sáng lập ở Mỹ năm 1984. Vị giáo chủ này
được các tín đồ coi là người phát ngôn của Thượng Đế, ai tin theo ông sẽ tránh
thoát được cuộc phán xử cuối cùng ngày tận thế. Ông còn công khai tuyên bố rằng
ngày tận thế sắp đến, và coi những sản vật thời hiện đại như máy thu âm, truyền
hình, vi tính, thậm chí đến các loại báo chí cũng là công cụ của ma quỷ, tin
trong động vật thậm chí hình tượng của động vật cũng có ma quỷ ẩn nấp.
Ngoài ra, Charles Meade cũng không
tin cả thầy thuốc, cho rằng mọi thứ bệnh tật đều do tội ác và không tin đạo mà
ra. Ông chủ trương liệu pháp chữa bệnh bằng tinh thần, thậm chí còn kêu gọi tín
đồ không nên mang răng giả và đeo kính. Tổ chức tôn giáo này từ khi được thành
lập đã có 98 người vì mắc bệnh không chịu chữa trị mà chết, trong số có 42 trẻ
em. Điều khá lạ lẫm là các thành viên của giáo phái phần lớn đều thuộc những
gia đình trung lưu khá giả, sự nghiệp thành công, và tính tới thời điểm năm
1993, riêng tại bang Floria đã có đến 1.000 người tin theo.
Gần đây tại Việt Nam, dư luận cũng
bàn tán xôn xao về hoạt động kỳ quặc của một tổ chức mang tính lừa mị, có nguồn
gốc nước ngoài, gọi là “Hội Chờ Ngày Tận Thế”, mà thành viên phần lớn là giới
trẻ, làm cho một số bậc phụ huynh đã phải điêu đứng vì có con em mê tín một
cách cuồng nhiệt.
Các thuyết về tận thế hầu hết đều có
liên quan đến tôn giáo. Riêng thuyết tận thế (eschatology) của Thiên Chúa Giáo mô tả, bàn luận về tình trạng kết
cục của con người sau khi chết và của thế giới sau ngày tận thế. Đại khái cho
rằng người ta chết rồi linh hồn sẽ được Thượng Đế phán xử, người vô tội được
lên thiên đường, kẻ có tội phải xuống địa ngục. Thiên Chúa Giáo cho rằng kẻ có
tội nhỏ chưa chuộc xong sẽ tạm vào luyện ngục để nhận chịu sự trừng phạt nhất
định, trừng phạt xong vẫn có thể được lên thiên đường.
Tin Lành không thừa nhận thuyết này,
lại cho rằng đến ngày tận thế, Chúa Giêsu sẽ xuống lại thế gian, tất cả những
người đã chết đều được cho sống lại, người chưa chết thân thể sẽ thay đổi, tất
cả đều chịu sự phán xử; người được phán xử xong hoặc lên thiên đường hưởng hạnh
phúc đời đời, hoặc xuống địa ngục và bị trừng phạt vĩnh viễn.
Một thuyết khác cũng liên quan đến
Ki Tô Giáo, đó là Thiên Niên Thuyết hay Thuyết Ngàn Năm (Millenarism / Millennialism / Millenarianism / Chiliasm), xuất phát
từ cách giải thích mấy đoạn văn ở chương 20 sách Khải Huyền trong Kinh Thánh,
cho rằng Chúa Giêsu sẽ trở lại cai trị thế gian 1.000 năm trước khi tận thế.
Một số nhà “tiên tri” trước kia cho
ngày tận thế sẽ diễn ra vào năm 1000, rồi năm 2000…, nhưng rồi thế giới vẫn
tiếp tục tồn tại và diễn biến, khiến nhiều người thấy thế, hoặc cho đó chỉ là
những kịch bản vớ vẩn của trí tưởng tượng, hoặc tạm gác lại vấn đề, không thèm
nghĩ đến nữa.
Có ít nhất khoảng mười kịch bản về
ngày tận thế đã được nêu ra trông bề ngoài đều có vẻ nghiêm túc (như nói người
ngoài hành tinh xâm lược trái đất, sự thay đổi cực từ của trái đất, thế chiến
thứ ba, nạn khủng bố quốc tế…), trong số đó, dự đoán cho rằng thế giới sẽ bị
tận diệt vào ngày 21-12-2012 do một thảm họa từ bão mặt trời có vẻ thời sự sốt
dẻo, được một số báo chí trên Internet đưa tin, khiến không ít người nhạy cảm
với câu chuyện tận thế đã trở nên hoang mang, bán tín bán nghi, và không phải
không có người cả tin đó là một sự thật!
Tuy nhiên, tình hình tin hay không
tin có ngày tận thế trong khoảng năm mươi năm trở lại đây đã dần dần biến đổi,
trở nên nghiêm túc hơn, khi loài người bắt đầu có đủ điều kiện hơn về mặt tri
thức để nhận thức trở lại về một thế giới bất toàn xuất phát từ tình trạng ngày
càng lâm nguy của môi trường sống, phổ biến được cho là cũng do chính con người
làm ra. Ngày nay, ngày càng có nhiều người và nhiều dân tộc ý thức được rằng,
nếu đứng trên quan điểm sinh thái, khả năng hủy diệt nhân loại bắt nguồn từ sự
hủy diệt môi trường là một điều hoàn toàn có thể xảy ra.
MÔ TẢ THỰC TRẠNG
KHỦNG HOẢNG TÀI NGUYÊN VÀ SINH THÁI
Nói gần ở Việt Nam, chỉ chừng bốn
mươi năm trước đây, ở các vùng nông thôn (đặc biệt nông thôn Nam Bộ), tuy rằng
nông nghiệp chưa phát triển như bây giờ nhưng đời sống của dân chúng vẫn khá
được thoải mái nhờ ở nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, với đồng ruộng cò
bay thẳng cánh, vườn tược sum sê, trên sông rạch thì tôm cá dập dìu… Tình hình
tốt đẹp nầy chuyển xấu dần, và cho đến hôm nay đã hoàn toàn xấu hẳn, diễn ra
trên khắp hành tinh, do dân số gia tăng, môi trường sống bị khủng hoảng bởi
tình trạng khai thác bừa bãi từ các nguồn tài nguyên thiên nhiên, như tôm cá,
khoáng sản. Dân số tiếp tục gia tăng theo tỷ lệ 1,2%/năm, với tốc độ cứ 30-40
năm lại tăng gấp đôi (khoảng 6 tỷ vào năm 1999, nay đã đạt 7 tỷ người), cùng
với nhu cầu khai thác ngày càng tăng của con người đã làm cho nguồn tài nguyên
không thể tái tạo được của quả địa cầu cạn kiệt đến mức báo động. Diện tích
rừng trên thế giới bị thu hẹp dần đã ảnh hưởng nặng nề đến sự sống của các loài
động - thực vật và một số loài đã bị diệt chủng, tạo nên một thời kỳ lớn gần
như không thể đảo ngược của sự tuyệt diệt ồ ạt trong sinh quyển vốn là nền tảng
của hệ sinh thái địa cầu. Một số loại tài nguyên khoáng sản không có khả năng
tái tạo như than đá, dầu lửa, hơi thiên nhiên, sắt, đồng… với đà khai thác như
hiện tại cũng sẽ cạn kiệt trong vòng đôi ba trăm năm nữa. Tình trạng thiếu nước
đang là mối nguy cơ đe dọa nhiều dân tộc trên thế giới. Việc sử dụng các nhiên
liệu hóa thạch (than, dầu, khí…) cũng tăng theo tỷ lệ tương tự, gây ra ô nhiễm
trên phạm vi toàn cầu cũng như những biến đổi khí hậu và mực nước biển.
Tình trạng ô nhiễm môi trường (còn
gọi là sự thoái hóa của môi trường) đã và đang diễn ra tới mức khốc liệt làm
kinh hoảng cả loài người hiện đại, vốn là hậu quả trực tiếp của tiến bộ khoa
học - kỹ thuật dẫn đến quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa ngày càng tăng
mạnh ở tất cả các quốc gia trên thế giới. Không khí và nước bị ô nhiễm vì khói
xăng dầu và các chất hóa học, các loại nông dược; nạn rác, phóng xạ nguyên tử
và tiếng động.
Từ tháng 6-1992, Hội Nghị Quốc Tế Về
Môi Trường (còn gọi Hội Nghị Thượng Đỉnh Trái Đất) họp tại Rio de Janeiro (Brazil)
với sự hiện diện của nhiều vị nguyên thủ quốc gia đã từng cảnh báo loài người
về hiện trạng môi trường bị tàn phá do những trận mưa axit gây ra bởi chất SO2
và NO2 thải ra không khí từ các nhà máy và xe cộ; tầng ozone trong
không khí bị mỏng đi để cho tia cực tím lọt vào gây tác hại đến sự sống của
sinh vật, do việc sử dụng nhiều chất khí Chlorofluorocarbon (CFC) trong các
bình xịt thuốc xức tóc, khử mùi hôi, trừ ruồi muỗi hoặc dùng trong kỹ nghệ
lạnh; hiện tượng “hiệu ứng nhà kính” (greenhouse
effect) chủ yếu do khí CO2 gây ra làm cho bầu khí quyển nóng lên
(tương tự hiện tượng ánh nắng mặt trời chiếu vào nhà kính), có nguy cơ làm phát
sinh nạn hạn hán và cạn kiệt nguồn nước, đồng thời làm tan băng ở Bắc Cực và
Nam Cực khiến cho mực nước biển tăng dần.
Cùng với tình trạng ô nhiễm môi
trường là sự phá vỡ thế quân bình trong hệ thống sinh giới (ecosystem) hay còn gọi là sự mất cân
bằng sinh thái, dẫn đến tình trạng còn nguy hiểm hơn nữa gọi là biến đổi khí
hậu trên phạm vi toàn thế giới, đe dọa trực tiếp vào khả năng sinh tồn của tất
cả loài người trên trái đất.
BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU:
NHỮNG BIỂU HIỆN CÙNG HẬU QUẢ CỦA NÓ
Các cuộc quan sát được thực hiện từ
30 đến 60 năm qua cho thấy rõ ràng khí hậu toàn cầu đã và đang bắt đầu thay
đổi. Theo Công Ước chung của Liên Hiệp Quốc (LHQ) thì “Biến đổi khí hậu trái đất là sự thay đổi của hệ thống khí hậu gồm khí
quyển, thủy quyển, sinh quyển, thạch quyển hiện tại và trong tương lai bởi các
nguyên nhân tự nhiên và nhân tạo.” Nói rõ hơn, cũng theo Công Ước LHQ, “Biến đổi khí hậu là những biến đổi trong
môi trường vật lý hoặc sinh học gây ra những ảnh hưởng có hại đáng kể đến thành
phần, khả năng phục hồi hoặc sinh sản của các hệ sinh thái tự nhiên và được
quản lý hoặc đến hoạt động của các hệ thống kinh tế - xã hội hoặc đến sức khỏe
và phúc lợi của con người.”
Nguyên nhân chính gây biến đổi khí
hậu là do chất thải từ khu vực tiêu thụ năng lượng cũng như từ nông nghiệp và
do nạn chặt phá rừng. Hầu hết các chất khí gây ra bức xạ vẫn còn được thải ra
trong khu vực tiêu thụ năng lượng, kể cả trong giao thông, đóng góp cho khoảng
phân nửa sự nóng dần lên của trái đất. Khí cacbonic (CO2) thải ra
khi đốt cháy các nhiên liệu hóa thạch (than, dầu, khí) và là nguồn khí chủ yếu
gây nên hiệu ứng nhà kính; nó cũng được sinh ra từ các hoạt động công nghiệp
như sản xuất xi măng và cán thép. Trong vòng 100 đến 200 năm sau, sự tăng tập
trung trong khí quyển các loại khí gây hiệu ứng nhà kính sẽ có tác động rất lớn
đối với khí hậu hơn bất cứ nhân tố nào khác, kể cả núi lửa hay sự thay đổi của
bức xạ mặt trời. Theo sự tính toán của các nhà khoa học, các chất khí được thải
ra do kết quả của nạn phá rừng nhiệt đới đóng góp cho khoảng 15% hiệu ứng nhà
kính. Nông nghiệp thế giới tạo ra khoảng 15% tổng số các chất khí thải gây ra
bức xạ, trong đó khí CO2 được phóng thích chủ yếu từ việc đốt sinh
vật, việc biến rừng thành đất trồng, những đám cháy rừng hoang và đồng cỏ. Khí
metan (NH4) trong nông nghiệp được phóng thích ra từ những đồng lúa,
khu chăn nuôi gia súc, việc đốt sinh vật và từ những bãi rác chôn dưới đất; còn
khí nitơ oxit (N2O) thì được hình thành từ phân bón đạm, không chỉ
có liên quan đến hiệu ứng nhà kính mà còn góp phần hủy diệt tầng ozone trong
khí quyển, mà sự hủy diệt này cho đến cách nay chừng 20-25 năm thực tế đã tăng
lên nhanh hơn so với lúc ban đầu người ta có thể tưởng.
Ngoài hai hiện tượng hiệu ứng nhà
kính và thủng tầng ozone nổi bật và nguy hại nhất, quá trình biến đổi khí hậu
còn tạo nên những trận mưa axit, nạn cháy rừng, lũ lụt, hạn hán, tình trạng sa
mạc hóa và hiện tượng sương mù quang hóa (photochemical
smog – một dạng ô nhiễm không khí sinh ra khi ánh sáng mặt
trời tác dụng lên khí thải động cơ xe máy, khí thải công nghiệp)…
Các biểu hiện của biến đổi khí hậu
có thể bao gồm sự nóng lên của khí quyển và trái đất; sự thay đổi thành phần và
chất lượng khí quyển có hại cho môi trường sống; mực nước biển dâng cao do băng
tan, dẫn tới tình trạng ngập úng ở các vùng đất thấp, các đảo nhỏ trên biển; sự
di chuyển của các đới khí hậu cũ dẫn đến nguy cơ đe dọa sự sống của các loài
sinh vật, các hệ sinh thái và hoạt động của con người; sự thay đổi cường độ
hoạt động của quá trình hoàn lưu khí quyển, chu trình tuần hoàn nước trong tự
nhiên và các chu trình sinh địa hóa khác; sự thay đổi lượng mưa tăng theo tốc
độ tăng của nhiệt độ lần lượt sẽ tác động chủ yếu đến cây cối cũng như việc sản
xuất nông nghiệp và lâm nghiệp; sự phát triển của cây trồng sẽ bị đe dọa do sự
phân bố lượng mưa thay đổi, sự tăng lên của tia bức xạ UV-B và sự thay đổi
trong thành phần hóa học của bầu khí quyển; sự thay đổi năng suất sinh học của
các hệ sinh thái, chất lượng và thành phần của thủy-sinh-địa quyển…
Hậu quả của thực trạng biến đổi khí
hậu là làm cho các hệ sinh thái bị phá hủy (như san hô bị tẩy trắng do nước
biển ấm lên…), mất tính đa dạng sinh học (một số loài sinh vật bị biến mất hoặc
có nguy cơ tuyệt chủng…), tăng thêm dịch bệnh (do đã tạo thuận lợi cho các con
vật truyền nhiễm sinh sôi nảy nở…), nạn bão lụt, hạn hán, những đợt nắng nóng
gay gắt gây nguy hiểm tính mạng, các núi băng và sông băng đang teo nhỏ… Ngoài
ra, nó còn gián tiếp gây nên những cuộc chiến tranh xung đột do căng thẳng khí
hậu hoặc trực tiếp gây ra những tổn thất nặng nề về kinh tế do những trận bão
lụt lớn.
Những khám phá mới nhất cho thấy các
nước nghèo hơn ở những vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới sẽ bị ảnh hưởng chủ yếu
và trầm trọng gây nên nạn đói khổ và dòng người tỵ nạn môi trường dài vô tận,
tạo thành mối đe dọa cho nền hòa bình thế giới. Các nước công nghiệp hóa cũng
khó tránh khỏi những hậu quả nặng nề và những biến động xã hội do các dòng di
dân đến từ những vùng ngập lụt, hạn hán hoặc những vùng bị đặt vào tình thế
nguy hiểm. Tai họa biến đổi khí hậu chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ hành
tinh, và những tổn thất về môi trường sẽ không còn giới hạn ở một vùng hay một địa
phương đặc biệt nào mà sẽ đe dọa tất cả loài người trên trái đất.
Ngoài nạn lũ lụt, hạn hán… gia tăng
gây thiệt hại về người và tài sản do quá trình biến đổi khí hậu, loài người vẫn
phải tiếp tục đối đầu với những hình thức ô nhiễm đã có (khói, bụi, tiếng động,
phóng xạ nguyên tử, nguồn nước, rác…) mà chưa ngăn lại được, cũng như tình
trạng cạn kiệt tài nguyên, các loại thiên tai truyền thống khác như núi lửa,
động đất, sóng thần, sạt lở đất đá ở núi và các bờ sông, vẫn tiếp tục phát tác
và ngày càng thêm mạnh, cùng với tình trạng đói nghèo, chiến tranh và khủng bố,
bệnh dịch, một số loại bệnh nan y cũ và bệnh lạ mới xuất hiện…, tạo thành một
tổng thể đa dạng các mối đe dọa nguy hiểm đối với sự tồn vong của mình.
ĐỐI CHIẾU THỰC TẾ:
THIÊN TAI NHÂN HỌA NGÀY MỘT GIA TĂNG
Cho đến hiện tại, tình trạng nhiệt
độ trái đất nóng dần lên như các dự báo đã trở thành một thực tế bình thường mà
một người không cần tri thức khoa học cao sâu vẫn có thể cảm nhận được, khi so
sánh một cách đơn giản năm hiện tại với những năm về trước. Thời gian gần đây,
nhiệt độ cụ thể ở nhiều nơi nóng lên thấy rõ, như ở Úc, ở Việt Nam khoảng gần
hai năm trước, nhiệt độ ngoài trời có lúc lên đến 45-500C, gây chết
người trong một vài trường hợp... Vậy tình trạng khí hậu biến đổi theo hướng nóng
dần lên trên phạm vi toàn cầu là một hiện thực phổ biến chắc chắn và cụ thể,
chứ không chỉ còn nằm trên những bản báo cáo lý thuyết riêng đâu đó của các nhà
khoa học. Giả định, nếu nhiệt độ có lúc lên tới 600C tại một nơi nào
đó, thì con người sẽ giống như bầy kiến còn sót lại trong chảo mỡ, khi người ta
bắc chảo lên lò chuẩn bị nấu nướng, các con kiến chẳng còn biết bò vào đâu cho
đến lúc phải bị thiêu rụi vài giây sau đó!
Trong biến đổi khí hậu toàn cầu,
Việt Nam
được dự đoán là một trong hai quốc gia chịu hậu quả nặng nề nhất trên thế giới
khi mực nước biển dâng lên. Đây là lời cảnh báo của Ngân Hàng Thế Giới (WB)
được đưa ra tại hội nghị về đa dạng sinh học và thay đổi khí hậu của Việt Nam được tổ
chức tại Hà Nội vào đầu tháng 1-2009. Theo ông Mark Lowcock, một quan chức của
Bộ Phát Triển Quốc Tế Anh (DFID) thì “Việt
Nam, một nước đang phát triển trong thời kỳ công nghiệp hóa, nằm trong nhóm
những nước dễ bị tổn thương bởi các vấn đề môi trường do biến đổi khí hậu gây
ra như lũ lụt, hạn hán, bão. Bên cạnh đó, với bờ biển dài, vấn đề mực nước biển
tăng có thể làm mất 12,2% diện tích đất của Việt Nam và đe dọa tới chỗ sinh
sống của khoảng 17 triệu người.” [2]
Một số dự báo như vừa nêu trên đã
vạch ra một viễn cảnh khá bi quan cho thế giới nói chung và cho Việt Nam nói riêng, trong đó có TpHCM vốn được coi là
đầu tàu của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam .
Trên cái nền biến đổi khí hậu với
rất nhiều ảnh hưởng tiêu cực cho môi trường sống của loài người, người ta ngày
càng nhận thấy các trận thiên tai như bão lụt, động đất - sóng thần... đang có
khuynh hướng gia tăng cả về nhịp độ lẫn quy mô, gây nên sự chết chóc hàng loạt
và những thiệt hại vô cùng to lớn về tài sản.
Loài người còn chưa quên được nỗi
kinh hoàng được gây nên bởi trận động đất Ấn Độ Dương (còn gọi thảm họa Sóng
Thần Ấn Độ Dương hay Sóng Thần Châu Á) xảy ra dưới đáy biển ngày 26-12-2004,
kích hoạt một chuỗi các đợt sóng thần, tàn phá các cộng đồng dân cư sinh sống
ven biển ở Indonesia, Sri Lanka, Ấn Độ, Thái Lan và những nơi khác, cướp mất
sinh mạng của khoảng trên dưới 230.000 người thuộc 11 quốc gia.
Năm 2006, một đợt sóng thần xảy ra
tại Java đã làm cho 750 người thiệt mạng. Ngày 12-5-2008, trận động đất Tứ
Xuyên được coi là trận động đất mạnh, thảm khốc nhất xảy ra tại Trung Quốc giết
chết gần 400.000 người. Cùng thời gian này, vào ngày 03-5-2008, cơn bão Nargis
tàn phá đất nước Myanma làm chết khoảng 100.000 người.
Chỉ riêng trong năm 2009 và đầu năm
2010, người ta ghi nhận hàng trăm vụ thiên tai lớn nhỏ đã liên tục xảy ra trên
toàn thế giới, và mới đây nhất là trận động đất 8,9 độ Richter kèm theo sóng
thần ngày 11-3-2011 ở Nhật làm cho khoảng hơn 10.000 người chết và mất tích.
Trận động đất lịch sử không chỉ tàn phá cả một vùng đông bắc nước Nhật về cả
người lẫn của mà còn làm rung động dữ dội đến tất cả trái tim con người ở những
phần đất còn lại của thế giới.
Đặc biệt, ngay sau trận động đất
lịch sử, hàng loạt vụ nổ lớn đã xảy ra tại các nhà máy điện hạt nhân đã làm
tăng thêm lượng chất phóng xạ tung ra môi trường. Ngay sau các vụ nổ, mức phóng
xạ ở nhiều khu vực miền đông bắc nước Nhật đã tăng cao một cách đáng kể. Mối lo
ngại về rò rỉ phóng xạ khiến cả thế giới giật mình lo ngại về việc đảm bảo an
toàn ở các nhà máy điện hạt nhân của mỗi nước. Trước tình hình này ở Nhật, và
nhớ lại một vài vụ nổ khác trước đây ở Nga và ở Mỹ, nhiều nước đã tạm dừng xây
dựng các nhà máy điện hạt nhân, như Thụy Sĩ, Úc, Đức, Indonesia, Thái Lan…
Sau thảm họa động đất - sóng thần
lần này, cùng với nhiều vụ thiên tai lớn khác xảy ra ngày càng nhặt hơn trên
khắp thế giới, nhân loại cũng ngày càng nhận thức rõ hơn ra tính chất hạn chế
cố hữu của các nền văn minh, rằng sự tiến bộ vượt bực về khoa học - kỹ thuật
(mà cường quốc kinh tế Nhật là một nước tiêu biểu) trước sau vẫn không thể tạo
được cho con người khả năng kiểm soát và chế ngự được thiên nhiên một cách hoàn
toàn. Rằng, tri thức khoa học - kỹ thuật của loài người tuy ngày một tăng cao
cả về nhịp độ lẫn số lượng, nhưng các nhà địa chất học, địa chấn học, địa cầu
vật lý học, tương lai học, cũng như tất cả các chính quyền với nhiều công cụ
hiện đại trong tay…, vẫn bị giới hạn ở mức chỉ giải thích được cơ chế xảy ra
các hiện tượng thiên nhiên trên lý thuyết thôi chứ không thể ngăn chặn được một
cách hiệu quả sự trừng phạt khốc liệt của chúng trên thực tế!
Người ta còn thấy rõ hơn, một cách
tiêu biểu nhất, ngoài thiên tai còn có nhân họa kèm theo, đó là những vụ nổ
liên tiếp của nhiều nhà máy điện hạt nhân gây nhiễm xạ đe dọa sức khỏe con
người. Bù qua sớt lại, trong thế giới gọi là văn minh, bên cạnh cái lợi tất phải
có cái hại kèm theo, đơn giản tương tự như càng có nhiều nhà máy, xe cộ… thì
càng có nhiều khói độc phun ra môi trường sinh hoạt, càng có nhiều tai nạn giao
thông chết người vậy! Cái bi kịch nằm ở chỗ, loài người tiếp tục tiến hóa vẫn
không thể không tiếp tục sản xuất ra những cái hại cần thiết, trừ phi giả định
họ có thể quay trở lại được cuộc sống nguyên thủy với một nền văn minh tinh
thần thuần túy, hoặc là dung hòa được một cách hợp lý giữa văn minh tinh thần
với văn minh vật chất.
Chưa cần viện dẫn đến kiến thức
chuyên môn sâu của các nhà khoa học, chỉ dựa trên thực tế và kinh nghiệm thông
thường, ai trong chúng ta cũng thấy rằng ngôi nhà địa cầu của chúng ta hiện
đang xiêu vẹo giống như một con bệnh nặng, bị tổn thương hết các phần từ lục
phủ ngũ tạng đến da thịt, mà các bộ phận này đều có sự tương quan, tương tác
lẫn nhau để có thể dẫn đến những biến chứng nặng đột ngột mà người thầy thuốc
dù giỏi đến đâu cũng không thể trở tay kịp. Rốt cuộc, con người vẫn tiếp tục
lúng túng ở trong cái vòng lẩn quẩn, vì thực tế không thể ngăn chặn sự khai
thác bừa bãi (nhất là ở những nước nghèo) hoặc ngưng lại các tiến bộ khoa học -
kỹ thuật, và đó chính là một trong những lý do để một số người nào đó còn có
thể vận dụng biện minh được cho những thuyết liên quan đến vấn đề tận thế mà có
những người khác cẩn thận hơn gọi là “tận
thế từng phần”.
BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG:
CÁC VẤN NẠN, BẾ TẮC VÀ SỰ CHẬM TRỄ
Việc bảo vệ môi trường thiên nhiên
hay môi trường sống đã và đang là một trong những vấn đề chung bức xúc nhất của
toàn thể nhân loại. Trong hoạt động bảo vệ môi trường có một nội dung quan
trọng là bảo vệ tài nguyên, bao gồm việc quản lý các nguồn tài nguyên thiên
nhiên để tránh khai thác quá mức hoặc phá hủy chúng. Các tài nguyên thiên nhiên
có thể tái tạo được như rừng và hải sản cần được bảo vệ ngay cả khi đang thu
được nhiều lợi ích nhất; còn các tài nguyên khác không thể tái tạo được như
nhiên liệu hóa thạch, trừ khi phải trải qua những khoảng thời gian địa chất rất
lâu dài và phải được sử dụng một cách thận trọng theo hướng tìm cách thay thế
bằng những dạng tài nguyên khác (như nhiên liệu có gốc thực vật...). Theo một
quan niệm hiện đại, “Việc bảo vệ tài
nguyên đôi khi cần đặt ra một cách vô điều kiện, vì bản thân các hệ tự nhiên
còn quan trọng hơn việc khai thác sử dụng chúng.” [3]
Thông qua quá trình khai thác dai
dẳng từ thiên nhiên nhưng thiếu hẳn tính kế hoạch để làm giàu vật chất cho
mình, những nước đã thành công về mặt kinh tế trước đây trên thực tế cũng đã
góp phần xấu hủy hoại môi trường, làm cạn kiệt tài nguyên rừng và khoáng sản
gây biến đổi khí hậu cùng sự mất quân bình trong hệ thống sinh thái, đều là
những nguyên nhân tổng quát trực tiếp hay gián tiếp gây nên các loại thảm họa
thiên nhiên như nhân loại đã từng chứng kiến, mà các thế hệ về sau phải trả giá
rất đắt để khắc phục nhưng e không còn kịp được nữa.
Ô nhiễm môi trường và bảo vệ môi
trường vì thế còn là một vấn nạn chung cho cả loài người, đặc biệt trong hiện
thực thế giới ngày nay nó ứng ngay vào những nước còn nghèo, trước hết vì đó là
một cái vòng lẩn quẩn không dễ giải quyết: Muốn phát triển thì phải mở thêm các
nhà máy và như thế là làm gia tăng ô nhiễm; muốn cải thiện tình trạng lương
thực thì phải dùng các loại phân bón và nông dược, thuốc kích thích sinh trưởng
có nguồn gốc hóa học độc hại; thất nghiệp không có gì để sống, muốn kiếm được
miếng ăn thì phải giết thú, chặt cây rừng... Ở Việt Nam , một nhà lãnh đạo chính trị cấp
tỉnh đã trả lời một nhà khoa học khi nhà khoa học cảnh giác ông ta về nguy cơ
gây ra bệnh ung thư của những nhà máy phôtphat tại địa phương: “Đồng ruộng cần phân bón hơn, năng suất lúa
thấp lắm, dân sợ đói hơn sợ ung thư.” Nhà lãnh đạo đã nói rất thật lòng, mà
cũng sát với thực tế cuộc sống của người dân, phải giải quyết cái ăn trước đã,
bao giờ bệnh sẽ tính sau, mặc dù có khi không thể chữa được.
Dường như tại những nước còn nghèo,
mọi “mô hình” hay con đường dẫn đến vấn nạn rắc rối về môi sinh đều diễn ra một
cách tương tự như những câu chuyện vừa kể. Với hiện thực Việt Nam , môi trường
cũng đã và đang bị phá hủy một cách hết sức nghiêm trọng, mà theo ý kiến đánh
giá của GS Võ Quý, “đang tiến đến chỗ
không kiểm soát nổi”. Cũng theo GS Võ Quý,[4] những thiên tai liên tiếp vừa qua ở Việt Nam như lũ
quét, trận ngập lụt lịch sử ở Hà Nội... không thể gọi là thiên tai mà chính là
nhân tai, “Lấp hết hồ ao, lấn sông lấn
ngòi thì nước thoát vào đâu mà không ngập úng. Chặt hết cây rừng thì lấy gì giữ nước mà không lũ quét...” [5]
Ngày nay, ngày càng có nhiều người
và nhiều dân tộc ý thức được rằng tai họa sinh thái một khi đã xảy ra sẽ không
còn ranh giới quốc gia, nên phải có sự hợp lực giữa mọi quốc gia dân tộc để
cùng nhau đối phó. Tuy nhiên, cho dù đã đồng nhận thức được vấn đề là có tính
chất toàn cầu, sự chú ý vấn đề lại không đồng đều nhau. Ở các quốc gia đang
phát triển, khác với quốc gia đã có nền công nghiệp phát triển cao, vấn đề làm
thế nào thoát ra khỏi sự nghèo đói thường được quan tâm trước tiên trong khi
vấn đề bảo vệ môi trường chỉ được xem là thứ yếu, đôi khi còn bị xem là một
việc làm xa lạ - xa xỉ, hoặc chỉ được làm một cách chắp vá chiếu lệ đầy tính
hình thức, như trường hợp Việt Nam cũng là một thí dụ khá điển hình, nói chi
đến một số nước châu Phi khác mà tình trạng còn có thể tồi tệ hơn rất nhiều. Vì
vậy, tại các cuộc hội nghị quốc tế về môi trường, luôn diễn ra các cuộc tranh
luận gay gắt giữa các nước có trình độ phát triển khác nhau: Các nước giàu
không muốn ký kết các hiệp ước có nguy cơ làm giảm lợi nhuận trước mắt và mức
sống hiện nay của họ; trong khi các nước nghèo cho rằng không có lý do gì họ
phải giảm tốc độ phát triển, đổ thừa 80% tình trạng ô nhiễm hiện nay là do các
nước giàu gây ra trong quá trình đã công nghiệp hóa.
Tựu trung, vấn đề là phải có một sự
nhận thức sâu sắc đồng đều mang tính toàn cầu vì mối hiểm họa sẽ không chừa
riêng một ai, trong một thế giới liên thuộc hoàn toàn cả về điều kiện thiên
nhiên lẫn xã hội. Bên cạnh sự phát triển khoa học và kinh tế còn phải nghĩ đến
yếu tố “phát triển cân bằng - bền vững” trên phạm vi toàn cầu, và điều đó nhất
thiết phải liên quan đến những vấn đề thuộc về lối sống và hoạt động xã hội, cùng
với những tiến trình chính trị phù hợp.
Đã có khá nhiều nỗ lực quốc tế để
cứu vãn tình thế, thể hiện qua rất nhiều cuộc họp đa quốc gia, như Hội Nghị Khí
Hậu Toronto năm 1988, Hội Nghị Liên Hiệp Quốc Về Môi Trường Và Phát Triển tháng
1-1992, Hội Nghị Thượng Đỉnh Trái Đất tháng 6-1992…, nhưng kết quả đều còn rất
giới hạn. Vô số các vấn đề trên thế giới đã được thảo luận tại các hội nghị
nhưng không đem lại một giải pháp dứt khoát nào, đặc biệt là các vấn đề về bùng
nổ dân số, đói nghèo, phát triển, và năng lượng, mà tất cả đều có mối liên hệ
chặt chẽ và tác động qua lại với tai họa biến đổi khí hậu đang đe dọa. “Một vài vấn đề trở nên lớn đến nỗi không
còn chỗ trống nào để tìm các giải pháp thành công.” [6] Trước tình trạng tổng khủng hoảng và tiến thối lưỡng nan như thế,
một số quan điểm bi quan còn cho rằng việc cứu chữa trái đất là đã quá trễ
tràng!
CĂN BẢN TRIẾT LÝ
HAY LỊCH SỬ NHẬN THỨC VẤN ĐỀ
Để phát triển kinh tế trong cái thế
triệt buộc của những thời kỳ từ còn mông muội đến lúc chưa khai sáng hẳn, nhằm
thỏa mãn dục vọng của mình, con người đã và vẫn đang chặt phá cây rừng, giết
hại động vật hoang dã, đào khoáng sản dưới lòng đất, chặn dòng nước để làm thủy
điện, lấp kênh rạch để xây nhà cửa dinh thự, mở thêm các nhà máy xả khí thải,
nước thải và rác rến vào môi trường... Còn về thực phẩm thời hiện đại, hầu như
trong bất cứ loại nào, từ tươi sống đến đóng gói, đều có đi kèm theo một hay
nhiều loại hóa chất nào đó, gồm các chất để bảo quản, làm tươi, giục cho mau
chín, kích thích tăng trưởng...; thịt cá được nuôi bằng thuốc tăng trọng,
hocmon tăng trưởng, rau quả dùng thuốc trừ sâu... đều rất có hại cho sức
khỏe... Và có lẽ chỉ có con người, chứ không phải loài vật, là thủ phạm chính
gây ra tình trạng phá hủy chính môi trường mà họ luôn luôn muốn được sống...
khỏe ở trong đó.
Các sự cảnh báo thật ra cũng đã có
từ lâu, do các nhà khoa học, triết học và hoạt động tôn giáo, nhưng riêng trong
phạm vi bảo vệ môi trường sống, con người thường khó tránh khỏi một “độ trễ
nhận thức”, từ lúc mới được cảnh báo cho đến khi có đủ độ chín muồi nhận thức
thực tế, mà khi thấy ra thì sự việc thường đã quá trễ tràng!
Nhiều người thấy rằng khoa học như
một lưỡi dao bén, có mặt trái của nó, và cái gọi là “phát triển” lâu nay như
Ivan Alice quan niệm, thực chất chỉ là một sự phá hoại trái đất, phá hoại môi
trường, hậu quả cuối cùng là phá hoại con người trên tất cả các mặt.[7] Một loại văn chương mới, loại ám tưởng, đã xuất hiện để báo động
về tương tai u ám nếu con người cứ đuổi theo những khuynh hướng như hiện nay,
tiêu biểu có quyển Brave New World
(1932) của Aldous Huxley, và quyển 1984 (1949)
của George Orwell. Những phim ám tưởng như Metropolis
(1926) và Modern Time (1936) mô tả
cảnh nhân loại chịu sự áp chế của chính trị và kỹ thuật.
Trong lịch sử, có khá nhiều dự báo
về tương lai u ám của nhân loại đã được nêu ra hàng ngàn, hàng trăm năm trước.
Từ xa xưa Khổng Tử từng nói: “Nhân vô
viễn lự, tất hữu cận ưu.” (Người ta không biết lo xa tất phải có cái lo
gần).
Các triết gia phương Đông quan niệm
vũ trụ bao gồm cả vạn hữu và con người, là một bộ máy toàn hảo luôn vận động
tuần hoàn theo luật Âm Dương. Đó là hai yếu tố căn bản, vừa tương phản nhưng
cũng vừa tương hội, tương sinh, tương thành, thôi thúc, xô đẩy nhau để tạo nên
thiên hình vạn trạng, trong cuộc biến hóa bất tận của thế giới sinh vật lẫn vô
cơ.[8] Trong Âm có Dương, trong Dương có Âm, nghĩa là hiện tượng nào
cũng chứa sẵn mầm tự hủy của nó. Một vật sinh ra đã bắt đầu đi dần tới sự tan
rã, và khi tan rã thì mở đầu cho một cái gì mới khác đang sinh, trong một dòng
biến dịch không ngừng. Cái nhà Nho gọi là dịch
hóa thì nhà Phật gọi là vô thường
(sinh trụ dị diệt, hoặc: thành trụ hoại không), không có gì còn mãi hoặc mất
luôn, mà đắp đổi, bổ túc cho nhau. Điều này hoàn toàn phù hợp với định luật bảo
toàn khối lượng chất, mà theo cách phát biểu của M.V. Lơmanôxôp (1711-1765) thì
“Tất cả những biến đổi diễn ra trong tự
nhiên đều có đặc điểm là một vật thể mất đi bao nhiêu lượng chất thì lại có bấy
nhiêu lượng chất kết hợp vào một vật thể khác. Định luật tự nhiên phổ biến này
cũng áp dụng được cho cả những quy luật chuyển động.” [9] Cũng theo quan niệm Dịch học, một vật gì đạt tới trạng thái toàn
thịnh (hay cùng cực) thì phải quay trở lại (Lão
Tử: “Vật cực tắc phản”), và “Không có gì bằng mãi mà không nghiêng, đi mãi
mà không trở lại.” [10]
Tìm
thêm trong kinh sử để soi sáng thêm cho các vấn đề sinh tử đã nêu trên, có lẽ
chúng ta dễ dàng đồng tình với quan điểm khá quen thuộc của Aristote (384-322
TCN) rằng “Mọi sinh vật đều có điều kỳ
diệu của nó.” Ý tưởng chính xác nầy có lẽ không khác gì mấy so với Khổng Tử
(551-479 TCN) cũng mấy ngàn năm trước phát biểu về mối tương quan ứng xử đáng
phải có với con người và các loài vật trong môi trường sống, mà ông coi là
“đồng loại”, còn được Tư Mã Thiên ghi lại trong bộ Sử Ký (“Khổng Tử Thế Gia”): “Tát
cạn đầm làm khô nước cá thì giao long (thuồng luồng) không hợp âm dương, trút
tổ chim phá vỡ trứng thì phượng hoàng không còn bay lượn. Vì sao thế? Là vì
người quân tử tránh làm thương tổn đến đồng loại của mình.” Loại ý tưởng
thâm trầm sâu sắc và nhân bản như thế của người xưa, có thể dẫn chứng được
nhiều thêm nữa, phải chăng là những lời khuyến cáo rất giá trị đối với loài
người ngày nay liên quan đến trách nhiệm phải bảo vệ môi trường sống của chính
mình bằng cách tôn trọng mọi sinh linh đang cùng sống chung trong ngôi làng Địa
Cầu?
Bên cạnh những quy luật vận động,
biến dịch mang tính biện chứng, chúng ta còn biết rằng loài người từ lâu đã
nhận ra các luật về mâu thuẫn, khắc chế nhau giữa các sự vật cùng tồn tại trên
thế giới, nhờ đó giữ được thế quân bình trong thiên nhiên hay là sự cân bằng
sinh thái. Hãy xem cây cỏ, loài dế và chim sáo. Nếu ta bắn chết nhiều chim sáo
thì loài dế có nhiều cơ hội sống hơn, chúng sẽ tàn diệt cây cỏ nhiều hơn rồi
đến lượt chúng cũng sẽ chết vì cây cỏ trụi hết không còn gì để mà ăn nữa. Ba
loài đó hợp thành một hệ thống sinh giới nhỏ; nếu có một bộ phận bị thay đổi
thì toàn hệ thống cũng thay đổi theo và có thể bị tiêu diệt. Các nhà khoa học
nhận xét rằng hệ thống càng phức tạp thì càng dễ giữ được thế quân bình. Bằng
khoa học - kỹ thuật và trí thông minh, con người can thiệp vào giới tự nhiên để
phục vụ cho lợi ích mình, nhưng nếu không chú ý mà làm phá vỡ thế cân bằng ấy
thì tất những cái hại tiếp theo sẽ được sinh ra…
Hơn một trăm năm về trước, trong tác
phẩm nổi tiếng Biện Chứng Của Tự Nhiên
(1873-1876), Friedrich Engels (1820-1895) chẳng đã từng nhắc rõ: “Chúng ta cũng không nên quá tự hào về những
thắng lợi của chúng ta đối với giới tự nhiên. Bởi vì cứ mỗi lần ta đạt được một
thắng lợi, là mỗi lần giới tự nhiên trả thù lại chúng ta. Thật thế, mỗi một
thắng lợi, trước hết là đem lại cho chúng ta những kết quả mà chúng ta hằng
mong muốn, nhưng đến lượt thứ hai, lượt thứ ba, thì nó lại gây ra những tác
dụng hoàn toàn khác hẳn, không lường trước được, những tác dụng thường hay phá
hủy tất cả những kết quả đầu tiên đó... Những sự việc đó nhắc nhở chúng ta từng
giờ từng phút rằng chúng ta hoàn toàn không thống trị được giới tự nhiên như
một kẻ xâm lược thống trị một dân tộc khác, như một người sống bên ngoài giới tự
nhiên, mà trái lại bản thân chúng ta, máu mủ và đầu óc chúng ta, là thuộc về
giới tự nhiên, và tất cả sự thống trị của chúng ta đối với giới tự nhiên biểu
hiện ở chỗ là chúng ta có ưu điểm hơn tất cả những sinh vật khác, nghĩa là
chúng ta nhận thức được quy luật của giới tự nhiên và có thể sử dụng được những
quy luật đó một cách chính xác...”
[11]
Trong những lời nhắc nhở minh triết
vừa trích dẫn, nhà triết học Friedrich Engels trong khi nhận thức rất rõ mối
nguy cơ về sự trừng phạt ác liệt của giới tự nhiên (bây giờ chúng ta gọi là
khủng hoảng môi sinh, biến đổi khí hậu...), vẫn còn có một niềm tin ở khả năng
chế ngự của con người đối với giới tự nhiên, do chỗ con người “nhận thức được quy luật của giới tự nhiên
và có thể sử dụng được những quy luật đó một cách chính xác...” Tuy nhiên,
“có thể” và “hiện thực” là hai khái niệm vẫn luôn luôn giữ một khoảng cách
chênh lệch khá xa với tổng hợp kết quả tối hậu của chúng có khi là một ẩn số
hay bí ẩn lịch sử mà con người phải cố gắng tìm kiếm để giải đáp cho những vấn
đề thuộc số phận của mình.
Ban đầu các dự báo thường không được
nhân loại quan tâm đúng mức, thậm chí còn thờ ơ ghẻ lạnh, nhưng sau nghiệm lại
thì thấy đúng “y như trong kinh”, như có thể dẫn chứng những lời cảnh báo thiết
tha của nhóm Câu Lạc Bộ La Mã (The Club
of Rome) khi tổ chức quốc tế phi chính phủ nầy lần đầu tiên đưa ra bản báo
cáo “Những Giới Hạn Tăng Trưởng” (The
Limits to Growth) vào tháng 3-1972 nói tới hậu quả của năm xu hướng lớn
trên toàn cầu: công nghiệp hóa gia tăng, dân số tăng lên quá nhanh, nạn suy
dinh dưỡng lan rộng, các nguồn tài nguyên không thể tái tạo vì bị vắt kiệt, môi
trường xuống cấp vì bị con người hủy hoại: “Chừng
nào một xã hội nhận ra rằng không thể nào tối đa hóa tất cả mọi thứ cho tất cả
mọi người, thì nó phải bắt đầu lựa chọn… Thêm người hay thêm của, thêm khoảng
đất hoang vu hay thêm xe hơi, thêm thực phẩm cho kẻ nghèo hay thêm dịch vụ cho
người giàu?” [12]
Mối nguy hại của tình trạng khủng
hoảng sinh thái toàn cầu ngày càng được loài người văn minh nhấn mạnh và nhận
thức rõ hơn. Đáng ghi nhận còn có bản “Tuyên
Bố Vancouver” năm 1989. Khoảng hơn 20 chuyên gia từ khắp nơi trên thế giới
đã họp nhau tại Vancouver (Canada ) để suy
nghĩ về “Khoa học và văn hóa ở thế kỷ 21:
một chương trình để sống còn”. Kết thúc hội thảo, họ đã thông qua bản tuyên
bố nói trên với nhận định cơ bản cho rằng hành tinh của chúng ta không ổn định,
đó là một động cơ nhiệt không ngừng thay đổi chế độ vận hành. Sự sống, xuất
hiện trên trái đất cách đây 4 tỷ năm, phát triển trong thế cân bằng với một môi
trường trong đó sự thay đổi đột ngột và không lường trước lại là một thông lệ.
Nhân loại hiện đứng trước một tình thế trong đó mọi sự cân bằng giữa giống loài
chúng ta và toàn bộ sự sống còn lại trên trái đất có nguy cơ sụp đổ. Rằng nguồn
gốc của những khó khăn hiện nay cơ bản nằm trong một số tiến bộ khoa học đã
hoàn thành chủ yếu vào đầu thế kỷ XX. Những tiến bộ ấy… đã đem lại cho con
người một quyền lực đối với tự nhiên… Say sưa với việc khai thác quyền lực ấy,
loài người có khuynh hướng làm thay đổi các giá trị của mình, đề cao giá trị
của thứ gì đẩy mạnh việc khai thác tối đa những khả năng vật chất mà quyền lực
mới kia đem lại. Đồng thời, những giá trị… từng làm nền tảng cho các nền văn
hóa trước kia, bị bỏ rơi. Rằng thời gian không còn nhiều: Mọi chậm trễ trong
việc thiết lập một nền hòa bình sinh thái - văn hóa thế giới sẽ chỉ làm tăng
lên cái giá phải trả cho sự sống còn. Rằng chúng ta phải thừa nhận thực tế của
một thế giới đa tôn giáo và sự cần thiết phải có một kiểu khoan dung cho phép
các tôn giáo có thể hợp tác với nhau cho dù khác biệt nhau đến đâu. Sự hợp tác
ấy sẽ góp phần đáp ứng những đòi hỏi cho sự sống còn của loài người và việc duy
trì các giá trị cơ bản chung của tình đoàn kết giữa con người, của các quyền
con người và nhân phẩm. Đó là di sản chung của loài người, sinh ra từ nhận thức
của chúng ta về ý nghĩa siêu nghiệm của cuộc sống con người và từ một ý thức
toàn cầu mới.[13]
Sau
“Tuyên Bố Vancouver” vài năm, một Hội Nghị Thượng Đỉnh Trái Đất họp ở Rio de
Janeiro (Brazil) vào ngày 6-3-1992 tiếp tục khẳng định các mối đe dọa về môi
trường, cho rằng môi trường đã trở thành những vấn đề quan trọng nhất của nhân
loại. Nếu trước kia các cuộc thảo luận thường tập trung ở các yếu tố có khả
năng hủy hoại môi trường, những mối hiểm họa lớn lao về môi trường mà con người
đang và sẽ phải đối phó thì trong cuộc họp quan trọng lần này, trọng tâm của
vấn đề chính là một tổng thể các biện pháp giải quyết có hiệu quả, trong đó có
vấn đề tài chính để thực hiện.
Tiếp
theo Hội Nghị Thượng Đỉnh Trái Đất năm 1992, còn có khoảng gần một chục cuộc
hội nghị thượng đỉnh quốc tế khác do Liên Hiệp Quốc triệu tập với sự có mặt của
nhiều nguyên thủ quốc gia nhằm mục đích lay động mọi thành viên quốc gia và cá
nhân trên thế giới nhất trí cao hướng sự tập trung của mình vào việc bảo vệ môi
trường sống chung của loài người trên trái đất.
Mới đây
nhất, thế giới hơi giật mình suy nghĩ về một sự kiện mà mới thoạt nhìn người ta
ai cũng dễ cảm thấy như không quan trọng: Canada đòi rút khỏi Nghị Định Thư
Kyoto, với lý do chính cho rằng, theo Bộ Trưởng Môi Trường Peter Kent của
nước này loan báo, nghị định thư này “không phải là con đường đi về
phía trước của Canada” và quốc gia này có thể đối diện với sự
trừng phạt khắc nghiệt nếu không đạt được các mục tiêu đã cam kết.
Như
chúng ta đều biết, Nghị Định Thư Kyoto ký kết ngày 11-12-1997 tại Kyoto và
chính thức có hiệu lực vào ngày 16-02-2005 là một thỏa thuận chung có tính toàn
cầu về việc cắt giảm khí thải gây hiệu ứng nhà kính để ngăn ngừa khả
năng hủy diệt thế giới do những khó khăn của nhân loại trong vấn đề đối phó với
tình trạng khủng hoảng môi sinh đang ngày càng thôi thúc và gia tăng mức độ đe
dọa.
Bằng một lương tri thông
thường, chúng ta có thể nhận ra rằng những lời tuyên bố của Bộ Trưởng Kent
là có tính trách nhiệm cao của những người cẩn trọng không ưa sự “hứa ẩu” hoặc
lẩn tránh sự thật, thêm một lần nữa chứng tỏ trên thực tế rằng hầu hết các cuộc
hội nghị thượng đỉnh đa quốc gia liên kết chống lại nạn ô nhiễm môi trường thế
giới đều thất bại phần lớn, do có sự đùn đẩy trách nhiệm lẫn nhau giữa nước này
với nước khác, như ở một đoạn trên đã nói.
Trong một tình trạng hầu
như có thể gọi là bế tắc như vậy, thì một tia hy vọng mới lại được lóe lên:
Trong tháng cuối cùng của năm 2011, Hội Nghị Durban ở Nam Phi về khí hậu toàn
cầu của Liên Hiệp Quốc đã đạt được một thỏa thuận rất lạc quan vào phút chót,
sau nhiều lần tưởng như đổ vỡ vì không thể tìm được tiếng nói chung giữa các
quốc gia. Theo thỏa thuận này, Liên Minh Châu Âu đã đáp ứng một đòi hỏi
căn bản của các nước đang phát triển bằng cách đưa các cam kết cắt
giảm khí thải vào khuôn khổ Nghị Định Thư Kyoto vốn có tính ràng
buộc về mặt pháp lý.
Các cuộc thảo luận về một thỏa thuận chung mang tính
ràng buộc mới giữa tất cả các quốc gia sẽ bắt đầu vào năm 2012 cho
đến trước năm 2015. Thỏa thuận mới này sẽ có hiệu lực trước năm
2020.
Trong khi nhiều nỗ lực đàm phán đi đến các thỏa thuận ký kết
đa quốc gia đã đạt được một cách tương đối lạc quan trên cơ sở một ý thức nhân
loại toàn cầu mới ngày càng tỏ lộ rõ nét hơn thì Liên Hiệp Quốc vẫn phải tiếp
tục cho hay rằng tình trạng thiên tai trên thế giới vẫn sẽ tiếp tục hoành hành
ngày một dữ dội hơn. Ngày 18-11-2011, Ủy Ban Liên Chính Phủ Về Biến Đổi Khí Hậu
(IPCC) của Liên Hiệp Quốc đã công bố một bản báo cáo đặc biệt về hiện tượng
trái đất ấm dần lên. IPCC cảnh báo hiện tượng thời tiết nguy hiểm có thể biến
một số khu vực trở nên không thể sinh sống được; các đợt nóng kéo dài vốn hiếm
gặp thì đến giữa thế kỷ này sẽ xảy ra với tần suất năm năm một lần; mưa bão ở
Mỹ và Canada cũng sẽ xảy ra thường xuyên hơn trong thời gian tới. Tại Đông Nam
Á, nơi thường xuyên xảy ra lũ lụt, thì trong tương lai tần suất thiên tai loại
này sẽ cao hơn gấp bốn lần so với hiện tại… IPCC cũng cảnh báo các nhà lãnh đạo
trên thế giới nên chuẩn bị tốt hơn để đối phó với thời tiết khắc nghiệt và cần
phản ứng kịp thời, giảm thiểu rủi ro, đừng đợi thảm họa xảy ra mới tìm cách
khắc phục hậu quả…
TRỞ LẠI VẤN ĐỀ TẬN
THẾ VÀ SỰ CHỌN LỰA LỐI SỐNG CỦA CON NGƯỜI
Tạo Hóa dựng nên con người, ban cho
ngôi nhà trái đất để ở và các thức tùy dụng, nhưng từ khi có lịch sử đến giờ,
con người hình như vẫn phải tiếp tục tìm cách giải quyết những vấn đề cơ bản
của mình, để được sống bình yên, no đủ và hạnh phúc. Nền khoa học - kỹ thuật mà
có lúc người ta tưởng là phép mầu, nay đã không chứng tỏ được khả năng chế ngự
tuyệt đối của nó đối với sức mạnh huyền diệu của thiên nhiên. Trái lại cách sử
dụng khoa học theo kiểu nào đó như đã từng được thấy còn có thể đẩy con người
đến trước những mối đe dọa mà giải pháp khó thể được minh định một cách chắc
chắn.
Giờ đây, đứng trước nhiều mối hiểm
họa, nhất là tình trạng khủng hoảng môi sinh có tính toàn cầu – hệ quả của nạn
nhân mãn và sự phát triển thiếu cân bằng của nền khoa học - kỹ thuật, nỗi ám
ảnh về một ngày “tận thế” nào đó không phải là không có thực đối với một bộ
phận không nhỏ con người trên hành tinh. Tuy nhiên, cho đến nay, điều đó chỉ có
thể suy diễn theo độ nhạy cảm riêng của mỗi người thôi chứ chưa thể tìm đủ được
căn cứ khoa học để chứng minh theo hướng khẳng định hay phủ định; và nếu điều
đó giả định có xảy ra thì cũng không ai có thẩm quyền để xác nhận về mặt thời
gian chừng nào nó xảy ra, khi mà con người vẫn còn đang đi tới trong cuộc hành
trình vất vả của mình mà cái đích tối hậu còn tùy thuộc rất nhiều ở họ.
Như được biết, từ lâu và thời nào
nhân loại cũng có những nhà tiên tri, các khái niệm về “tận thế” hay “mạt pháp”
hay “Hội Long Hoa”..., tùy theo tôn giáo, cũng được một số không ít người tin
theo. Ngoài ra, một số nhà tu hành cũng đã dựa vào những niềm tin như thế để
khuyến khích con người làm điều thiện, tránh điều ác, “tu mau kẻo trễ”, xét cho
cùng về nhiều mặt đều có tác dụng lợi lạc cho cuộc nhân sinh, dựa trên niềm xác
tín rằng điều ác vẫn còn có thể trừ bỏ được. Trên thực tế, các lời tiên tri gì
gì đó cũng có thể có giá trị nhất định riêng của chúng, vì cũng là sản phẩm tư
duy của loài người. Chúng chỉ khác với các dự báo mang tính khoa học ở chỗ con
đường và phương pháp tiếp cận, một đằng chú trọng trực giác và những suy nghiệm
thuần túy tâm linh hoặc tư tưởng, còn đằng kia căn cứ trên khoa học thực
nghiệm. Nhưng ngay cả tất cả các khoa học tự nhiên và khoa học xã hội dựa trên
điều tra, thống kê và thực nghiệm cũng không thể giải quyết được mọi vấn đề của
con người (như hạnh phúc, đau khổ, sự rủi ro, cái chết...), vì thế nếu có sự
hợp tác, bổ sung lẫn nhau giữa khoa học, triết học, tôn giáo thì đó cũng là
điều mà loài người tiến bộ hoàn toàn có thể chấp nhận được, nếu không muốn nói
là phải nên như thế.
Trong tình trạng biến đổi khí hậu
sâu sắc hiện nay, người ta tuy chưa thể đoán ra chính xác ngày tận thế cụ thể
nhưng đã có thể trông thấy được hiện tượng “tận thế cục bộ hay từng phần”, biểu
hiện ở những trận thiên tai ngày càng khủng khiếp với mỗi lần tiêu diệt đến
hàng trăm ngàn người, mà các hậu quả về mặt đấu tranh xã hội tiếp sau là không
thể tránh khỏi!
Mặc dù dự báo vẫn chỉ là dự báo,
phải đợi sự kiểm nghiệm của thực tiễn mới đủ điều kiện đánh giá đầy đủ, nhưng
một khi nó đã được đưa ra căn cứ vào những dữ liệu đầu vào tương đối chính xác
thì thường thường cũng có thể đạt được một mức độ khả tín nhất định, hay tệ
nhất cũng chỉ ra được xu thế phát triển chung mà xu thế này không thể đảo ngược
so với những điều đã được dự báo. Trong một thế giới vốn dĩ liên thông toàn
diện mọi mặt cả về thiên nhiên lẫn kinh tế - chính trị - xã hội, tùy thuộc vào
hàng triệu triệu yếu tố tác động qua lại lẫn nhau và không đứng yên một chỗ
trong cái dòng biến dịch bất tận diệu kỳ của thiên nhiên mà kiến thức loài
người không thể đo đếm hay kiểm soát được hết, thì người ta cũng không nên quá
khắt khe đòi hỏi các điểm dự báo áp dụng cho từng khu vực cụ thể nhất định nào
đó trên trái đất phải đạt được mức độ hoàn hảo, miễn là nó phải được đưa ra một
cách nghiêm túc căn cứ vào các dữ kiện khoa học khách quan chứ không nhằm mục
đích vụ lợi rẻ tiền hoặc tùy thuộc vào ý chí chủ quan của bất kỳ lực lượng
chính trị nào.
Hoặc giả, nhân loại vẫn sẽ còn tồn
tại dài dài, không tận thế nhưng cũng không lúc nào được sống yên ổn. Nói như
nhà sử học Will Durant (1885-1981), dựa vào thực tế lịch sử đã khảo sát kỹ
trong suốt mấy ngàn năm, là “Nếu loài
người trở nên đông quá không kiếm đủ thức ăn thì Tạo Hóa có ba cách để lập lại
thế quân bình: nạn đói, bệnh dịch và chiến
tranh.” [14] Durant quên nhắc đến yếu tố thiên tai và các loại nhân họa khác
còn giết người nhiều hơn cả nạn đói hay chiến tranh, bệnh dịch, có lẽ vì khi
viết bộ Câu Chuyện Của Nền Văn Minh (The Story of Civilization) nổi tiếng của
mình, từ hơn nửa thế kỷ trước, tình trạng thiên tai và nhân họa lúc đó còn ít
hơn bây giờ rất nhiều.
Nhờ sự tiến bộ của khoa học, nhân loại có thể ngày càng nhận
thức sâu hơn tình trạng hiểm nguy của mình trong biến đổi khí hậu cũng như đã
dễ dàng nắm bắt vững hơn những phương thức gì cần được thi triển để ứng phó
thích hợp. Nhưng cái khó nhất của loài người không phải ở chỗ thiếu tri thức
khoa học, mà rốt cuộc là ở chỗ hầu như không thể thay đổi được lối sống của
mình, khi vẫn tiếp tục tranh nhau duy trì hoặc gia tăng mức thu nhập, nhằm thỏa
mãn các dục vọng về nhu cầu vật chất, bằng cách tiếp tục sản xuất, mua sắm…
quăng vào môi trường đủ loại yếu tố ô nhiễm, vốn là căn nguyên gây nên cuộc
tổng khủng hoảng môi sinh toàn cầu như hiện nay.
Còn các nhà lãnh đạo ở mỗi nước, mặc dù đã nhận được lời
khuyên nhiều lần của tổ chức Liên Hiệp Quốc, người ta có thể hy vọng được gì ở
họ, trong khi vẫn thấy rõ ràng phần lớn họ vẫn tiếp tục chủ trương đua nhau
phát triển kinh tế và phô trương các loại vũ khí để ghìm nhau trong cuộc cạnh
tranh quyền lợi bất tận và ngày càng ác liệt?
Cho nên, có tránh được một trận Đại
Hồng Thủy hủy diệt thế giới hay không thì đó có lẽ cũng là một câu đố bí ẩn của
lịch sử, chưa thể có lời giải đáp ngay được trong lúc này!
Trong khi chưa thể có căn cứ chắc
chắn để xác định về hiểm họa và thời gian xảy ra tận thế toàn phần, một thực tế
mới ngày nay là phần khá lớn con người cũng đã bắt đầu chịu suy nghĩ nhiều hơn
về tương lai cùng thái độ sống hiện tại của mình. Một bản báo cáo quan trọng
dày 6.700 trang về tương lai hành tinh, trong đó chủ yếu liên quan đến vấn đề
biến đổi khí hậu do UNESCO, Ngân Hàng Thế Giới và vài tổ chức khoa học nghiêm
túc khác phối hợp thực hiện đã được chính thức công bố vào tháng 8-2009, có thể
chứng minh được cho những luận điểm vừa nêu ra ở trên. Được biết, bản báo cáo
đã đưa ra kết luận: “Nếu không có tăng
trưởng bền vững, hàng tỷ người sẽ rơi vào đói kém và nhiều nền văn minh sẽ sụp
đổ.” Loài người muốn tìm kiếm cơ hội sống sót trong biến đổi khí hậu, họ
cần phải bỏ ra thật nhiều nỗ lực tương tự như muốn đưa người lên mặt trăng vậy!
Bản báo cáo còn đánh giá tình trạng suy thoái hiện nay khiến mười năm tới một
nửa thế giới sẽ phải đối mặt với bạo lực, bất ổn do nạn thất nghiệp gia tăng,
cộng thêm tình trạng thiếu nước, lương thực và năng lượng, và trên cái nền biến
đổi khí hậu, sẽ tạo ra hàng loạt vấn đề về an ninh môi trường, với cảnh báo
rằng những thay đổi về khí hậu sẽ khiến thiệt hại sinh mạng tăng cao, dẫn tới
nguy cơ nhiều quốc gia bị xóa sổ, và mối đe dọa bị xóa sổ nầy đang và sẽ tạo ra
những vấn đề rất lớn về chính trị - xã hội.
Nếu mối đe dọa về một ngày tận thế
hay mạt pháp có thể làm cho một số người tu tỉnh, bằng cách điều chỉnh lại nhân
sinh quan, xem xét lại lối sống, hành động của mình và đặt lại các bậc thang
giá trị mà lâu nay mình vẫn nhắm mắt theo đuổi (thí dụ quá chạy theo tiền bạc,
của cải vật chất...), thì bản báo cáo nêu trên của UNESCO cũng hy vọng có một
tác dụng tượng tự về mặt điều chỉnh nhận thức, lối sống cho loài người hiện
đại, khi các tác giả tự tin rằng họ cũng thấy một chút tích cực về tương lai: “Tin tốt lành là khủng hoảng tài chính toàn
cầu và biến đổi khí hậu sẽ giúp loài người chuyển dịch từ lối cư xử và suy nghĩ
ích kỷ, coi mình là trung tâm, sang lối ứng xử trưởng thành hơn, có trách nhiệm
hơn với cộng đồng thế giới... Nhiều người tin rằng thảm họa kinh tế hiện nay là
một cơ hội để đầu tư cho một thế hệ công nghệ xanh tiếp theo, đánh giá lại
những lý thuyết về phát triển kinh tế, và đưa thế giới vào quỹ đạo đến một
tương lai tốt hơn...”
20-02-2012
TRẦN VĂN CHÁNH
* Một số nội dung cốt lõi trên đây được phát biểu
trong bài “Tương Lai Nhân Loại Qua Vấn Nạn
Khủng Hoảng Môi Sinh Toàn Cầu” (ký tên Trần Khuyết Nghi), đăng trong Suối Nguồn số 1 (Nxb TpHCM, tháng 5-2011).
Nay tác giả chỉnh sửa, bổ sung nhiều thông tin cập nhật, để trình bày vấn đề cho
rõ hơn. [VĂN UYỂN]
[1] Đại
Thừa Chơn Giáo. Hà Nội: Nxb Tôn Giáo, 2011, tr. 204-206. Quyển 36 trong
Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách.
[2] Báo Khoa Học & Đời Sống, 11-01-2009.
[3] Từ Điển Môi Trường Anh Việt – Việt Anh, Nxb Khoa Học Và Kỹ Thuật, Hà Nội, 1995, tr. 57.
[4] GS Võ Quý
là một nhà sinh học Việt Nam
từng nhận giải thưởng “Hành Tinh Xanh” năm 2003, từng được tạp chí Time bình chọn là “Anh Hùng Môi Trường”
năm 2008.
[5] Báo Tuổi Trẻ, 26-11-2008.
[6] Lê Huy Bá,
Môi Trường Khí Hậu Thay Đổi – Mối Hiểm
Họa Của Toàn Cầu, Nxb TPHCM, 1997, tr. 18.
[7] Triết Học Tư Sản Phương Tây Hôm Nay, Nxb Thông Tin Lý Luận, Hà Nội, 1986, tr. 142-143.
[8] Dịch: “Hệ từ”: Âm Dương tương thôi nhi sinh biến hóa.
[9] Từ Điển Bách Khoa Nhà Hóa Học Trẻ Tuổi, Nxb Giáo Dục, Hà Nội, tr. 91.
[10] Dịch: Hào từ quẻ Thái:
“Vô hình bất pha, vô vãng bất phục.”
[11] Nxb Sự
Thật, Hà Nội, 1971, tr. 168-169.
[12] Giới Hạn Phát Triển -
Phúc trình cho dự án nghiên cứu của Câu Lạc Bộ La Mã về nguy cơ nhân loại, Nxb
Hiện Đại Thư Xã, 1974, tr. 177-178.
[13] Xem “Tuyên
Bố Vancouver”, tạp chí Phát Triển Kinh Tế,
số 21, tháng 7-1992, tr. 12-13.
[14] Nguyễn
Hiến Lê, Bài Học Của Lịch Sử, Nxb
Tổng Hợp TPHCM, 2006, tr. 24-25.