TIẾP ĐIỂN
THI
ÂM thầm hành đạo nối tình thương
NHƯ không biết được phương châm [3]
ấy
(…) Bần Đạo mời an tọa đẳng đẳng.
Giữa lúc thế sự nhiễu nhương, giáo
hội tranh phân, khiến lòng người hoang mang chẳng ít, chư hiền sĩ, hiền muội
rất hữu duyên được giác ngộ sớm, tìm học lẽ Đạo. Thông cảm được mối thiện tâm [9]
ấy, nên Bần Đạo nhắc nhở chư hiền sĩ, hiền muội điều nầy:
THI
Phải biết
sưu tầm một lối đi
Nẻo tắt
đường quanh rồi cũng đến
PHÚ LỐI VĂN
Đời mạt
pháp khiến muôn điều đảo lộn
Cơ điêu
tàn xáo trộn khắp nơi nơi
Bởi chúng
sinh xa cách lý Đạo Trời
Lòng bác
ái lần hồi như mất cả.
Bả danh
lợi kẻ xô người ngã
Tình
thương mến khó âu tồn tại [16]
Khiến xô
xát bởi điều quấy phải
Xui tương
tàn [17]
kẻ lại người đi
Mãi quẩn
quanh trong cảnh hiểm nguy
Hoài xuôi
ngược trong vòng chém giết.
Lòng đạo
đức đâu nào có biết
Chữ quả
công như việc mơ hồ
Từ kẻ ác
nhiễu nhương sanh chuyện
Đến người
lành lương thiện họa lây.
Không lẽ
để cho người lương thiện
Cùng chết
oan trong biển lửa đời
Nên Đạo
Trời mở khắp nơi nơi
Gọi nguyên
vị [23]
nghe lời đạo lý
Mau hồi tâm
[26]
nguyên vị trở về
Để may ra
thoát cảnh sông mê
Cảnh tan biến một hồi luân chuyển
Máy Thiên cơ hiển hiện bao hồi
Chưa đến căn còn cực với đời
Chư hiền sĩ đức tin cho vững
Kẻo lạc loài giữa chốn quay cuồng
Đời chi vui hoặc những chi buồn
Dẫu nói xa hiền sĩ ráng hiểu gần
Việc thực
tại cõi trần đang sống tạm.
Ráng tu
tỉnh để qua hồi hắc ám
Khá bền
tâm hầu vượt đám mây mù
Trọng tâm là tu học, học tu
Việc chánh
bởi một câu chánh tín.
TẢN VĂN
Nếu chư hiền sĩ, hiền muội không đủ
pháp mầu để ta bà cứu độ [37]
thì ít nhứt phải ráng tu mà tự cứu lấy mình.
THI
Nơi đây
nhìn thấy lắm nguyên căn
Công quả
chung tay kỳ mạt pháp
Ngày gần
sẽ thấy phúc Trời ban.
NGÂM
Thế gian
tuy lắm rộn ràng
Người tu
khá chọn con đàng nghĩa nhân
Khuyên
nhau huynh đệ xa gần
Phổ thông giáo
lý chung phần lập công
Công cao
thì ngộ [39]
ân hồng
Tu đi hãy gấp tu đi
Thế thời
đã vậy còn gì hỏi han
Ban ơn sĩ
muội trung đàn [41]
Thế trần
lo đạo, Niết Bàn đây lui.
Xin kiếu.
Đức QUAN
ÂM NHƯ LAI
Văn Phòng
Phổ Thông Giáo Lý
19-02 Ất Tỵ
(21-3-1965)
[1] Quan tước 官爵: Chức tước người làm quan (official
ranking). Chức tước và danh vọng (titles and honours).
[7] Thiên mạng 天命: Bậc hướng đạo
đang nhận lãnh sứ mạng của Trời giao phó là thế Thiên hành hóa 替天行化 (thay Trời hành đạo
để giáo hóa dân chúng tu hành).
[13] Đỉnh chung 鼎鐘: Đỉnh
là cái vạc để nấu ăn, chung là
chuông. Nhà giàu lớn có rất đông người, phải nấu cơm bằng vạc; tới giờ ăn cơm
phải đánh chuông để tập hợp tất cả mọi người. Đỉnh chung: Gia đình quyền thế, giàu
có, đông người; Cuộc sống sang giàu (luxurious life).
[14] Nghĩa nhân (nhơn) 義仁: Nghĩa
là điều đúng đắn, lẽ phải, mà người ta không thể không làm (righteousness). Nhân là lòng thương người (benevolence).
[18] Tợ
thể: Như thể, giống như.
[19] Tơ
vò: Sợi tơ mảnh bị vo lại nên rối nùi, khó gỡ ra.
[21] Cơ
Tạo Hóa: Thiên cơ, máy Trời (Heaven
plan).
[22] Tùy
nhân loại: Tùy theo tội phước của loài người.
[23] Nguyên vị 原位: Ngôi vị cũ trên trời của các nguyên nhân
xuống thế gian (original position). Trong bài này có nghĩa là nguyên
căn, nguyên khách, nguyên nhân (các chơn linh từ cõi thượng giới, xưa kia
nhận lãnh sứ mạng xuống thế gian độ đời).
[25] Độ thân độ kỷ 度身度己:
Cứu giúp chính mình vượt khỏi sông mê sang bờ giác. Cùng nghĩa tự độ (to deliver oneself).
[28] Nguyên nhân (nhơn) 原人: Những chơn linh từ cõi thượng giới, xưa kia nhận lãnh sứ mạng xuống
thế gian độ đời; khác với hóa nhân 化人 là những ai từ kim thạch, thảo mộc, cầm thú tiến hóa lên làm người.
[40] Hoa
Long dự kỳ: Dự vào Đại Hội Long Hoa.