Thứ Hai, 30 tháng 10, 2017

27/29 ĐĐVU 24 / VIỄN KIẾN XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC CỦA NGUYỄN AN NINH QUA TUỒNG HÁT HAI BÀ TRƯNG / CAO VĂN THỨC

Nguyễn An Ninh (1900-1943) là một nhà báo, nhà cách mạng nổi tiếng ở Nam Kỳ vào thập niên hai mươi của thế kỷ trước. Ông viết nhiều sách, báo để lên án chính quyền thực dân Pháp, khích lệ tinh thần đấu tranh của nhân dân. Vở tuồng Hai Bà Trưng do ông sáng tác đã thể hiện tư tưởng, viễn kiến xây dựng đất nước sau khi nước nhà giành được độc lập.
Vở tuồng Hai Bà Trưng do Nguyễn An Ninh sáng tác và xuất bản năm 1928, nhưng bị chính quyền thực dân cấm đoán, thu hồi. Sáng tác này của ông được in lại toàn văn trong sách Văn Học Việt Nam Nơi Miền Đất Mới (tập 2) của Nguyễn Q. Thắng (Hà Nội: Nxb Văn Học, 2007).
Nội dung vở tuồng viết về cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng năm 40 Công Nguyên. Mặc dầu viết về một đề tài lịch sử xa xưa, nhưng tác phẩm mang dáng dấp, hơi thở của thời kỳ hiện đại. Vở tuồng hát có tất cả tám chương, đặc biệt ở chương bảy với nội dung hoàn cảnh nước nhà vừa mới giành được độc lập, Nguyễn An Ninh đã thể hiện tư tưởng, viễn kiến xây dựng đất nước của mình.
Theo Nguyễn An Ninh thì một nhà nước Việt Nam mới, được xây dựng sau khi giành độc lập, buổi đầu sơ khai còn chứa nhiều yếu kém. Ông đã nêu ra một số khuyết điểm cốt lõi như sau:
Những người lãnh đạo không đủ sức thấy xa, xét xa 
Theo Nguyễn An Ninh, sau khi đấu tranh giành độc lập rồi thì khi những người lãnh đạo cuộc kháng chiến lên chấp chính, nắm chính quyền. Ở trên ngôi vị lãnh đạo đất nước, một số lớn có tâm lý thỏa mãn với những chiến thắng trong quá khứ và thường nảy sinh tâm lý kiêu căng, hưởng thụ tạm bợ. Điều này được thể hiện qua sự băn khoăn, trăn trở của nhân vật Trưng Nhị khi giãi bày tâm sự với nhân vật Lý Định: “… họ không đủ sức mà thấy xa, mà xét xa. Người nghèo mới được một cái nhà tranh thì vui vẻ hớn hở. Mình là tay thợ cất nhà, mà mình không dám chắc rằng nhà tranh ấy chịu nổi với gió giông, làm sao cho mình vui vẻ như họ được?” (Sách đã dẫn, tr. 47)
Ở một đất nước nông nghiệp lạc hậu, sau khi đánh đuổi ngoại bang, lên nắm chính quyền hầu hết là những con người xuất thân từ nông dân nghèo khổ, vì vậy tư duy, tầm nhìn của họ thiển cận, hẹp hòi, không thể “thấy xa, xét xa” được trong việc trị quốc, ngược lại chỉ “vui vẻ hớn hở” với những gì mình vừa giành được. Những người lãnh đạo không có tầm nhìn xa trông rộng, vội vàng thỏa mãn với những thắng lợi trước mắt nên không thể có khả năng làm cho dân giàu, nước mạnh, đủ sức đề kháng với nạn ngoại xâm. Một đất nước muốn phát triển thì lãnh đạo phải là những người xuất thân từ tầng lớp có thực học, tri thức và có hoài bão, viễn kiến xây dựng, là những “tay thợ cất nhà” chuyên nghiệp theo cách ví von của Nguyễn An Ninh.
Người dân không biết quý trọng quyền tự do của mình
Nguyễn An Ninh đã nhận xét rất xác đáng, thông qua lời nhân vật Trưng Nhị về ý thức tự do của dân Việt Nam: Dân Việt Nam không phải vì quý trọng cái quyền tự do của mình mà đánh đuổi thằng Tàu. Đánh đuổi thằng Tàu là vì bị nó hà hiếp thới quá. Nếu còn có thể thở được, thì chắc là dân Việt Nam không có vùng vẫy làm gì. Ngày nay em cũng còn chưa chắc rằng dân Việt Nam biết quý trọng quyền tự do của mình.” (sđd., tr. 47-48)
 Đúng như lời Nguyễn An Ninh nhận xét, trình độ dân trí nước ta rất là thấp kém. Một đất nước nông nghiệp, dân chúng đại đa số là nông dân thất học, kém hiểu biết, vì vậy họ nổi lên phản kháng kẻ thù cũng chỉ đơn thuần là do chúng “hà hiếp thới quá”, chứ nếu chính quyền đô hộ nới nhẹ sự bóc lột một chút, người dân “còn có thể thở được” thì chắc chắn dân nước mình sẽ sống yên phận nô lệ. Do trình độ dân trí thấp kém, họ không hiểu được khái niệm Tự Do thiêng liêng của mỗi cá nhân con người, của mỗi dân tộc và vì vậy lẽ đương nhiên là họ không “biết quý trọng quyền tự do của mình”.
Nguyễn An Ninh đã cảnh báo sự nguy hại này: “Dân Việt Nam không biết yêu quý cái quyền tự do của mình, ấy là điều đại hại cho vận mạng nước nhà về sau… Nếu không suy xét kỹ, tưởng nó là nhẹ, rồi không để ý đề phòng thì mỗi việc thình lình nó đến cho mình là một điều tai họa… Không lẽ nào nước Tàu để cho nước Việt Nam vuột khỏi tay nó mà nó không lo cướp lại… Mà dân Việt Nam vùng quăng cái ách của mình được rồi thì bộ như không còn lo sợ cho mình còn phải bị mang ách nữa.” (sđd., tr. 48)
Từ chỗ không ý thức được giá trị của Tự Do, trách nhiệm xây dựng và gìn giữ sự Tự Do, nên người dân nước mình sẽ bằng lòng, tự thỏa mãn với những gì mình đã có được, thiếu sự lo xa. Đó là một trong những sự nguy hại vì sẽ dẫn đến sự suy vong của đất nước, không đủ nội lực để chống đỡ trước hiểm họa ngoại xâm luôn luôn rình rập.
Sử dụng bọn quan lại người Việt phục vụ chính quyền đô hộ trước kia
Một trong những yếu tố nguy hại cho chế độ mới là do buổi đầu thành lập, thiếu người làm việc trong các cơ quan, công sở nên phải sử dụng lại những người Việt đã từng cộng sự, phục vụ trong chính quyền đô hộ của ngoại bang trước đây. Tuy không phải tất cả nhưng đa số những người đã từng phục vụ cho ngoại bang đều có óc vụ lợi, giữ chức quyền chỉ mục đích là tham nhũng đục khoét, để vinh thân phì gia. Nguyễn An Ninh đã nhận xét về đám người này bị tha hóa này: Mình lại dùng bọn quan lại lúc trước làm quan cho Tàu… dùng bọn đã có nhiễm những thói tục của quan lại Tàu mà trị dân như trước, thì cũng không có sửa đổi gì mấy.” (sđd., tr. 48)
Từ việc chỉ ra những mối nguy hại của một nhà nước vừa được xây dựng sau khi giành độc lập, Nguyễn An Ninh đã đưa ra những biện pháp để kiến thiết nhà nước mới:
Phải làm pháp luật để chế ngự bọn quan tham
Ông viết:Dùng thì phải dùng rồi. Nhưng mà mình phải tính cho bọn ấy là bọn dùng tạm. Mình phải làm luật pháp để kềm buộc chúng nó phải sửa đổi, phải y hợp với thời nay” (sđd., tr. 48); như vậy theo ông thì buổi đầu do còn thiếu người làm việc nên phải dùng tạm những công chức, quan lại cũ nhưng phải soạn ra pháp luật để có biện pháp ràng buộc, chế tài, không cho chúng làm bậy, sách nhiễu nhân dân. Và đồng thời phải nhanh chóng đào tạo quan lại, đội ngũ công chức mới để thay thế dần đám quan lại, công chức cũ: “Mình phải lo cho có một bọn quan lại mới, đặng đuổi lần bọn quan lại cũ đi”. (sđd., tr. 48) Một bộ máy hành chính lành mạnh thì phải đào tạo được một đội ngũ công chức mới, có tinh thần phục vụ cho nhân dân.
Phải lo giáo hóa đám thanh niên là chỗ sở cậy ngày sau
Tuổi trẻ là rường cột của đất nước, vì vậy theo Nguyễn An Ninh thì sau ngày giành được độc lập, nhà nước mới phải có chính sách đào tạo, bồi dưỡng mà ông gọi là “giáo hóa” để họ có năng lực và phẩm chất đạo đức để góp phần xây dựng đất nước mai sau, tránh sự kiêu ngạo nguy hại thường mắc phải ở tuổi trẻ sau khi vừa gặt hái được những thắng lợi ban đầu:Mấy cậu thanh niên, mới vừa lấy nước lại được, thì sẽ kiêu ngạo, tưởng nước mình ngày nay không còn sợ ai, ngang mặt với nước Tàu… Mấy cậu cứ nhắc mãi rằng mình là con rồng cháu tiên không sợ rằng kẻ nào kiêu ngạo làm sao cũng gặp kẻ kiêu ngạo hơn, cũng như đứa tham nhỏ phải mắc đứa tham lớn vậy.” (sđd., tr. 48) Muốn có được những thế hệ trẻ làm rường cột cho nước nhà thì giáo dục đóng một vai trò rất quan trọng.
Làm cho xã hội Việt Nam không còn bất công, tàn ác như thời nô lệ
Bên cạnh việc chú trọng xây dựng bộ máy hành chính lành mạnh, một nền giáo dục độc lập, Nguyễn An Ninh cũng chú trọng việc giải quyết những mâu thuẫn xã hội tồn đọng từ thời kỳ nộ lệ:Làm sao lo giữ gìn cái quyền tự do của mình đây, lo cho khỏi làm trâu ngựa cho người ta? Đã bị người áp chế, đã có đau khổ vì những việc bất công tàn ác, thì phải làm sao trong xã hội Việt Nam ngày nay không còn những sự bất công, những điều tàn ác như trước nữa. Tôi muốn cho mấy triệu người Việt Nam lo gìn giữ, cày cấy, khai phá đất nước của ông bà để lại, cùng khổ nhọc, cùng vui hưởng với nhau như con một nhà.” (sđd., tr. 48-49)
Nguyễn An Ninh, một trí thức thông tuệ và tiến bộ, bằng sự tiên cảm của mình đã nhận thấy rằng một đất nước độc lập nhưng không có tự do thì những bất công, tàn bạo của thời kỳ mất nước, nô lệ vẫn tồn tại dai dẳng trong xã hội. Theo ông, phải có một xã hội dân chủ, giá trị tự do được tôn vinh thì mới mong xóa được những bất công, mang lại hạnh phúc thực sự cho nhân dân, từ đó cả dân tộc mới có thể đồng cam cộng khổ làm cho đất nước được phú cường, bảo vệ được cơ đồ do cha ông để lại cho con cháu mai sau.
Vở tuồng Hai Bà Trưng của Nguyễn An Ninh viết năm 1928, cách đây non một thế kỷ, thời kỳ nước nhà đang còn dưới sự thống trị của thực dân Pháp. Tuy bối cảnh lúc đó, đang còn phải đấu tranh gay go với mục đích cấp thiết là giành độc lập dân tộc, thì Nguyễn An Ninh đã nhìn xa tới vấn đề xây dựng đất nước sau khi cách mạng thành công. Những suy tư, trăn trở của nhà yêu nước Nguyễn An Ninh thể hiện qua vở tuồng Hai Bà Trưng, đã để lại những bài học bổ ích cho hậu thế.
CAO VĂN THỨC