Những ai đã đi qua một thời tuổi thơ, hẳn sẽ không quên được hình ảnh cây
cà rem của những ngày thơ bé. Khỏi phải nói, cà rem là
một trong những món khoái khẩu nhất của tôi và chúng bạn.
Cũng như bao đứa trẻ nghèo
ở quê nhà, tiếng leng keng phát ra từ cái chuông nhỏ xíu gắn trên chiếc xe đạp
và những cây cà rem đã ăn sâu vào ký ức tuổi thơ. Hình ảnh ấy còn đi vào cả
những giấc mơ của tuổi thơ tôi, từ những ngày nơi quê xa đến khi chập chững
những bước chân đầu tiên nơi phố thị.
Chiếc xe đạp sườn ngang cũ
kỹ, loại dùng để thồ hàng ngày trước, loang lổ những vết sơn theo bao ngày mưa
nắng. Nó cũ đến mức tôi cũng không biết tả nó chính xác là màu gì. Phía sau cái
boọc-ba-ga nhỏ, ông bán kem cẩn thận buộc thêm bốn thanh tre dài, hai thanh
ngang và hai thanh dọc, để thùng cà rem to khi buộc dây sẽ tạo được thế cân
bằng và chắc chắn hơn.
Người đàn ông dáng gầy gầy,
da đen nhẻm, trông những nếp nhăn khóe mắt và nét khắc khổ trên gương mặt khiến
ông già hơn nhiều so với tuổi có lẽ chừng ngoài năm mươi. Bọn trẻ chúng tôi
cũng không biết ông tên gì, cứ gọi đại là “Chú cà rem”, đơn giản vậy!
Hồi ấy, một cây cà rem có
thể nói là cả một niềm mơ ước của trẻ thơ. Được sở hữu cây cà rem là cả niềm hạnh phúc,
hãnh diện lớn lao của đám trẻ quê nghèo.
Không có tiền mua, bọn tôi vẫn thường rủ nhau đi gom nhặt những chai lọ
phế liệu, đồ nhôm nhựa, đi lượm sắt vụn, lượm đồng, gom cả những đôi dép đứt
quai để dành sẵn để… đổi cà rem. Có khi mỗi ngày, chú cà rem chạy qua xóm một
lần, thường là vào một khung giờ nhất định, khoảng từ 12 giờ trưa đến 2 giờ
chiều.
Đó cũng chính là nguyên nhân khiến đám trẻ bọn tôi thường trốn giấc trưa,
hay có bị bắt ngủ trưa thì cũng chỉ giả vờ nằm nhắm mắt để đó, còn trong lòng
thì đang “dậy sóng” bởi mong ngóng tiếng leng keng của chú cà rem. Vậy mà cũng
có khi đến ba bốn ngày trời chú cà rem mới đi ngang ngõ một lần.
Những khi ấy, vừa nghe tiếng chuông leng keng từ đám ruộng đằng xa, bọn
con nít ở xóm ba chân bốn cẳng cắm đầu chạy ra bờ tre ngay góc ngã ba đón sẵn.
Cà rem của bọn tôi ngày ấy
thường là cây tròn, que làm bằng thanh tre nhỏ xíu, có đầy đủ các vị: đậu xanh,
đậu đỏ, đậu đen, thiệt lâu mới có thêm cà rem tím nhạt vị khoai môn hay màu
vàng của mít, sầu riêng.
Chú cà rem rất linh hoạt,
từ hai trăm, năm trăm đồng đến một, hai ngàn đồng, nhiều tiền hay ít tiền đều
có cả. Bởi chú có một thanh tre nhỏ làm chuẩn, cứ đo theo thanh tre mà cắt cà
rem, hai trăm từng này, năm trăm đồng thì từng này, một ngàn gấp đôi, cứ thế mà
tính.
Cả đám xúm xít vây quanh
thùng cà rem, xôn xao như bầy ong vỡ tổ: đứa đổi hàng, đứa mua, có đứa không có
đồng nào trong túi, chỉ bùi ngùi đứng một góc để xem.
Ngặt nỗi, cũng có đứa được
cho tiền nhưng khi nghe tiếng chuông đã nhào chạy mà không biết tiền không nằm
trong túi. Những lúc ấy, bọn trẻ chúng tôi bỗng dưng yêu thương nhau lạ, có khi
hai ba đứa ăn chung một cây cà rem. Dè xẻn đến mức không đứa nào dám cắn, chỉ
liếm lớp kem tan chảy, vậy mà cái vị ngọt thơm, mát lạnh ấy thấm mãi…
Tiếng leng keng cứ thế đến
rồi đi, vang vọng vào tận những ngõ ngách xa xôi. Theo những vòng xe miệt mài,
tiếng leng keng và thùng cà rem đã mang đến bao niềm vui bình dị cho trẻ nghèo
nơi thôn xóm heo hút, hẻo lánh, mang cả những vui buồn trẻ thơ của chúng tôi
vào đó.
Khi chiếc xe đã đi rồi, vẫn
còn không ít những cặp mắt trẻ thơ ngóng theo, sung sướng, hân hoan, thèm
thuồng và chờ đợi.
LÊ MINH