Ngày 24-12 dương lịch hằng năm, cùng với cộng đồng dân Chúa trên toàn thế
giới, hàng môn đệ Cao Đài nói chung và bổn đạo thánh thất Bàu Sen nói riêng
đồng thành tâm tưởng niệm Đức Giêsu Kitô nhân dịp đại lễ kính mừng Chúa giáng
sinh.
Trong truyện cổ Anh
Quốc có câu chuyện như sau:
Liên tục trong năm trăm
năm liền, cứ vào đêm Giáng Sinh, dân chúng tại một thành phố nọ đều tập trung
lại, không phải để mừng ngày Chúa đã giáng sinh mà để chờ đợi ngày Chúa trở
lại. Trước lúc nửa đêm, họ đốt đèn, đốt nến, hát thánh ca, rước kiệu đến một
ngôi thánh đường cũ, nơi họ đã dựng một hang đá bên trong nhà thờ, và với tất
cả tấm lòng thành, họ quỳ gối cầu nguyện. Ánh nến cùng những bài thánh ca làm
tan đi cái giá lạnh của đêm đông. Tất cả mọi người trong thành phố đều có mặt ở
đó, ai cũng đều tin rằng nếu tất cả mọi người trong thành đều có mặt để cầu
nguyện trong đêm Giáng Sinh một cách thành tâm thì Chúa Giêsu có thể sẽ trở lại
đúng vào lúc nửa đêm.
Thế nhưng ngày trở
lại của Chúa vẫn chưa bao giờ xảy ra. Một nhà báo hỏi một người thanh niên:
“Bạn có thực sự tin rằng Chúa Giêsu sẽ trở lại trong đêm Giáng Sinh tại thành
phố của bạn không?”
Đáp: “Không,
tôi không tin chắc như thế!”
Nhà báo hỏi tiếp: “Vậy
tại sao bạn lại đến đấy mỗi đêm Giáng Sinh?”
Thanh niên cười và
trả lời: “Vì tôi không muốn là người duy nhất vắng mặt khi Chúa trở lại.”
Vấn đề Chúa sẽ trở lại sau hai ngàn năm cũng được tổng
thống Mỹ John F. Kennedy quan tâm. Một người được gần gũi tổng thống Kennedy là
mục sư Billy Graham kể rằng chỉ vài hôm trước ngày tổng thống John F. Kennedy
nhậm chức, ông và thượng nghị sĩ George Smathers ở bang Florida
được mời đến chơi gôn và thăm khu nhà của dòng họ Kennedy ở Palm Beach . Trên đường từ sân gôn trở về,
tổng thống Kennedy dừng xe, quay lại hỏi ông: “Mục sư Billy Graham, ông có tin
rằng Chúa Giêsu sẽ trở lại trái đất không?” Mục sư sửng sốt trước câu hỏi này
của tổng thống Kennedy nhưng ông cũng trả lời ngay không chút do dự: “Thưa tổng
thống, tôi tin Chúa Giêsu sẽ trở lại chứ!”
Hai câu chuyện vừa
kể cho chúng ta thấy rằng phần đông các Kitô hữu vẫn luôn mong mỏi ngày trở lại
thế gian của Đức Giêsu Kitô. Bởi lẽ Kinh Thánh có chép lời Chúa như sau:
1. “Vậy anh em
hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến. Anh em hãy
biết điều này: Nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông đã thức,
không để nó khoét vách nhà mình đâu. Cho nên anh em cũng vậy, anh em hãy sẵn
sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con [của] Người sẽ đến.”
(Matthêu 24:42-44)
2. “... Chúa sẽ
đến như kẻ trộm ban đêm.” (Thư Thêxalônica 1, 5:2)
Riêng đối với hàng
tín hữu Cao Đài thì việc Đức Giêsu Kitô trở lại thế gian đã thành hiện thực.
Tuy nhiên, Chúa trở lại thế gian, không phải bằng hình hài thể xác của một con
người mà bằng thần khí, bằng điển quang qua ngọn linh cơ trong công
cuộc cứu độ Kỳ Ba của Đức Chí Tôn Thượng Đế.
Lễ Giáng Sinh năm 1958, tại Tòa Thánh Châu Minh (Bến
Tre), Đức Giêsu Kitô giáng cơ:
Hỡi các môn đồ, Ta đã đến
Đến bằng linh điển hợp thời này.
Lễ Giáng Sinh năm 1959 (chuẩn bị bước sang năm 1960), tại
Huờn Cung Đàn (Vĩnh Hội, Sài Gòn), Chúa giáng cơ nhắc lại lời di chúc của Ngài
trong Kinh Thánh:
Đến một ngàn chín trăm sáu chục
Trong Thánh Kinh di chúc của Ta
Trong hai ngàn năm đó là
Hạ nguơn tận thế Cha Ta lâm trần.
Cha Ta vốn Chơn Thần Thượng Đế
Cha Ta là Chúa Tể càn khôn
Cha Ta là Đấng Chí Tôn
Là Đại Từ Phụ bảo tồn nhơn sanh.
Đức Chúa Trời tá danh cứu thế
Danh Cao Đài Ngọc Đế Kỳ Ba
Việt Nam hạnh ngộ Đạo nhà
Hoàn cầu vạn quốc
nhìn Cha là Thầy.
Lễ Giáng Sinh năm 1967,
giáng cơ tại thánh thất Bàu Sen, Đức Giêsu Kitô dạy:
Ta đến với một mùa đông đầy giá rét
Để hy sinh cứu rỗi cho nhân loài
Ta lại đến trong cơn lửa bỏng dầu sôi
Để cất tiếng từng hồi gọi đàn chiên lạc lõng.
Lễ Giáng Sinh năm 1973, tại Huờn Cung Đàn, Chúa giáng cơ nhắc
lại:
“Giờ kỷ niệm, hai ngàn năm sắp mãn, theo lời tiên đoán
ngày xưa còn nêu rành Cựu Ước, nay gợi lại để Thiên sứ, sứ đồ, gợi sưởi lòng ôn
lại những điều tiên tri trên mặt luật. Vì trong hai ngàn năm, Ta sẽ tái lâm hạ
thế, nhưng ngày nay Ta đến thế gian như kẻ trộm. Đó là điều tiên đoán ngàn xưa,
nay nhắc lại để chứng minh cho đời biết. Cũng như bao con chiên Ta đã đón tiếp
và chờ mong ngày xuất hiện, lòng man mác đương trông mỏi. Nhưng Ta đã đến thế
gian từ bao giờ, lòng con chiên chưa nhận thức. Đó là vì màn bí mật trùm bao,
luật Thiên Điều hé màn cho biết. Nhưng đặc tính của con chiên vẫn còn đang tầm
nơi không trung vị sứ thần xuất hiện, đang mong mỏi săn đuổi để đón rước Ta
bằng tấm lòng tin tưởng, nhưng quên xem lại điều ghi sau những lời Cựu Ước. Đời
mạt hạ, Ta hạ thế bằng linh điển để đem con người trở về đường hướng thiện để
giải tỏa xích xiềng cho bản thân được thanh thỏa thân tâm, tu tầm vị cũ. Vì
ngày Ta đến thế gian là ngày những tôi trai tớ gái đã nói những lời tiên tri
như Ta hiện nay.”
Và một điều đặc biệt
hy hữu trong Tam Kỳ Phổ Độ đó là không chỉ Đức Giêsu Kitô
trở lại thế gian mà tất cả các Đấng Giáo Tổ như Đức Phật Thích Ca, Đức Thái
Thượng Đạo Tổ (Đức Lão Tử), Đức Khổng Phu Tử, v.v… đều trở lại thế gian trong
công cuộc tận độ quần linh của Đức Thượng Đế.
Sứ mạng của các Ngài
trong thời Tam Kỳ Phổ Độ này không chỉ đơn thuần là kêu gọi nhơn sanh hồi tâm
hướng thiện bỏ dữ làm lành mà chủ yếu là sứ mạng xây dựng Nhân Hòa trong tinh
thần vạn giáo nhứt lý.
Do đó, lại có thêm một
điều hy hữu nữa trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, đó là trong kho tàng giáo lý Cao
Đài, chúng ta thấy có khi thì Đức Phật Thích Ca dạy về Ngũ Chi Đại Đạo (bao gồm
Nhơn Đạo, Thần Đạo,
Thánh Đạo, Tiên Đạo và Phật Đạo); có khi một vị Phật giảng lời
Chúa Giêsu trong kinh Thánh. Chẳng hạn như Đức Như Ý Đạo Thoàn Chơn Nhơn, vào
ngày 25-12-1973 (Quý Sửu) đã dạy tại Vĩnh Nguyên Tự như sau:
“Này chư hiền đệ, hiền muội! Nhân ngày lễ Giáng Sinh
của Đấng Cứu Thế ở phương Tây, Lão tưởng cũng nên nhắc lại một lời nào của Chúa
Giêsu đã nói để mở đề cho cuộc đàm đạo hôm nay trong tinh thần Vạn giáo đồng
nhất lý.
Khi Đức Chúa Giêsu cùng chư môn đồ giảng đạo
trước quần chúng, Chúa dùng lời thí dụ chuyện gieo giống. Các hạt giống được
đem gieo, những hạt bị rơi ở mé đường không khỏi bị chim chóc nó nuốt đi. Những
hạt rơi trên tảng đá, sống tạm vào chút ít cát bụi mà lên, cũng không khỏi bị
úa tàn vì rễ không châm sâu được. Những hạt rơi vào lùm bụi gai gốc cũng lên,
nhưng bị nghẹt vì gai gốc. Còn những hạt rơi vào đất tốt sẽ nẩy tược đâm chồi
và kết quả.
Môn đồ hỏi Chúa: Thí dụ như thế có ý gì?
Chúa bảo rằng hạt giống là Đạo, Thiên Chúa ban
cho, còn những hạt rơi trên mé đường là những kẻ nghe Đạo nhưng ma quỷ sợ họ
tin rồi được cứu rỗi đi, nên chực rước Đạo ra khỏi lòng họ. Những hạt rơi trên
đá là những kẻ nghe Đạo bèn vui mừng nhận lấy, nhưng họ không có rễ, chỉ tin
tạm mà thôi, khi gặp sự cám dỗ thì họ sẽ ngã. Những hạt rơi vào gai gốc là
những kẻ nghe Đạo rồi bị sự lo lắng giàu có vui thú của đời sống làm nghẹt đi
mà không sanh được trái chín. Còn những hạt rơi vào đất tốt là những kẻ nghe Đạo
rồi lấy lòng thành thật lương thiện mà gìn giữ, nhẫn nại mà kết quả.
Chư hiền đệ, hiền muội! Chính hôm nay Lão muốn
nói lại lời Chúa Giêsu với chư hiền, vì chư hiền là môn đồ của Chí Tôn Thượng
Đế. Chư hiền sẽ lãnh hội và đem nói với con cái Đức Chí Tôn về ý Đạo ấy. Lão
muốn hạt giống Đạo được gieo vào đất tốt để đơm hoa kết quả. Lão muốn mỗi người
đều tìm cầu cái Đạo ở bên trong mà đừng tìm cầu ở bên ngoài. Trợ duyên chính
đáng rất cần cho người hành giả; trái lại, người hành giả tìm Đạo ở chỗ trợ
duyên, Lão e lâm vấp trước đa đoan rồi chùn bước.”
Và rồi chính Đức Giêsu Kitô, trong một lần giáng cơ tại Huờn
Cung Đàn (Tam Giáo Điện Minh Tân, Vĩnh Hội, Sài Gòn) vào ngày lễ Giáng Sinh
25-12-1966 (Bính Ngọ) đã có một bài giảng độc đáo về quẻ Thiên Hỏa Đồng Nhơn
trong Kinh Dịch của Nho Giáo:
“Ta chào chư Thiên ân, chư đạo tâm nam nữ.
Ngày này khắp trên mặt địa cầu đều để lòng ghi
nhớ ơn Ta. Ta sẽ ban nhiều phước lành cho nhơn loại. Nơi đây cũng như khắp
trong nền chánh pháp Cao Đài đều dâng lễ mừng Ta. Ta sẽ làm cho nước này, dân
này được nhiều an ủi và lành mạnh thêm mãi. Chư Thiên ân an tọa.”
Chúa đã nêu lên tình trạng bi
đát của thế giới nhân loại ngày nay:
“Này chư hướng đạo ôi! Khắp trên hoàn cầu, nơi nào
cũng bị họa đời giày xéo, người người đương rên rỉ, lầm than, phập phồng lo sợ
từ giờ từ phút, chưa biết ma tử thần đến lúc nào.
Ôi! Cảnh đời quá điêu linh, điên đảo! Nước nước
tranh giành mà đưa đến cho con người một cuộc máu xương khói lửa ngút trời. Khổ
vì xác thịt, vì ăn vì mặc, vì lợi vì danh, vì chỗ đứng nơi ngồi, vì màu da sắc
tóc, loài người xô đẩy nhau. Chẳng những vậy, mà còn phe phái, xu hướng khác
nhau, đã gây nên tang tóc cho đời. Thậm chí tôn giáo cũng vì tín ngưỡng không
đồng mà xô xát nhau, làm cho tinh thần xáo trộn. Cái họa đời to tát, rồi đây nó
sẽ xô nhơn loại vào hố gươm đao, vào nơi chiến địa. Nếu Đạo Trời không ra kịp,
thì cõi dinh hoàn này chắc chắn sẽ thành tro bụi.”
Đức Thượng Đế khai mở mối Đạo
Trời để cứu nhân loại thoát khỏi thảm họa diệt vong và đã ban trao cho dân tộc
Việt Nam sứ mạng tiền phong. Chúa dạy rằng một sứ mạng vô cùng trọng đại, một
trách nhiệm quá đỗi to tát như thế thì cần phải có sự đồng tâm hiệp lực của rất
nhiều người để lấp bằng các hố sâu chia rẽ, xô ngã các thành trì phân ranh màu
sắc, tín ngưỡng:
“Đạo Trời lần ba hoằng khai để cứu vãn tình trạng nguy
vong của nhơn loại, mà tái lập cuộc thế giới an bình. Thượng Đế chọn đất Việt
làm thánh địa, chọn dân Việt làm tiền phong khai Đạo, nói lên những lời thiết
tha bằng tình thương lẽ thật và sự sống đời đời.
Cái sứ mạng trọng đại này, cái quyền pháp vinh
hạnh này, chư hướng đạo đã chịu ơn Trời, đảm đương công vụ, hầu thay gánh cho
Chí Tôn ở dưới cõi này. Làm sao đây?
Đạo lớn lao thì trách nhiệm cũng quá chừng to
tát, đâu phải một người làm xong, mà cần hiệp sức nhau, chia sớt nhau, để cùng
lo cùng tính. Kẻ trong người ngoài, nơi nào cũng có mặt con người hướng đạo,
hầu nói lên cái tôn chỉ dung hòa bình đẳng, hầu mọi người, mọi nơi được nhận
định nguồn gốc là Đạo có một không hai, để lấp bằng các hố chia rẽ bất bình, xô
đổ những thành trì ngăn ngại phân ranh màu sắc, tín ngưỡng.”
Đức Chúa đã nhắc nhở chúng ta
một khía cạnh tâm lý nhân sự hết sức quan trọng trong việc kêu gọi mọi người
cùng đồng tâm hiệp lực với mình trong nhiệm vụ cao cả:
“Muốn hiệp nhứt, mà hiệp bằng một cách đơn độc, bắt
buộc ai cũng làm, cũng nói, cũng đi một đường, một kiểu như nhau, thì vạn đời
chưa chắc kết quả.
Muôn loài vạn vật đều khác nhau. Cá thì ở nước sông. Chim thì ở non ở núi. Bắt cá thả
lên rừng, bảo chim vào ở biển, thì làm sao không loạn?
Phương chi nhơn tình mỗi người mỗi ý, hóc hiểm
khó khăn, mà muốn biết lòng người, đâu phải không cực tâm nghiên cứu mà thấu suốt
tận đáy lòng của thiên hạ. Song lấy mình để xét người. Ai đói cũng muốn ăn,
lạnh cũng muốn mặc, nhọc cũng muốn nghỉ, thì mình với người khác chi. Đem mình
mà áp dụng vào người, thì ai không theo, ai không đồng.
Ngặt phải về một chỗ, phải làm một việc, phải
nói một lời thì kẻ nông phu không sao viết ra bài, người học trò làm sao canh
tác nổi. Nên việc làm tuy khác nhau, mà tâm hồn vẫn được như nhau, là điều
chung trong lợi người, lợi việc.
Hôm nay, Ta đến để góp một vài ý kiến về việc
tương hệ với bạn đồng đức đồng tâm, hầu kết nên tràng [trường] thương yêu mà chung
cùng nhiệm vụ.”
Chúa đã giảng một
đoạn trong Hệ Từ Dịch Truyện là lời của Đức Khổng Tử giảng giải thêm về quẻ
Thiên Hỏa Đồng Nhơn, một trong sáu mươi bốn quẻ của Kinh Dịch. Chúng ta biết
rằng Kinh Dịch được xem là Đạo của người quân tử, bởi lẽ mỗi quẻ trong Kinh
Dịch với lời giải của các bậc Thánh Nhân đã dạy cho con người cách hành xử sao
cho hợp đạo lý trong từng thời, từng vị, từng hoàn cảnh để được thành công.
Quẻ Thiên Hỏa Đồng
Nhơn được kết thành từ hai quẻ đơn: trên là quẻ Càn tượng trưng cho Trời tức là
Thiên; dưới là quẻ Ly tượng trưng cho lửa tức là Hỏa.
Quẻ gồm sáu hào
tính từ dưới lên: hào 1 (hào sơ), hào 2, hào 3, hào 4, hào 5, hào 6 (hào thượng).
Hào được vẽ bằng vạch liền là hào dương, gọi là “cửu”. Ví dụ: Hào 1 dương của
quẻ Thiên Hỏa Đồng Nhơn là hào sơ cửu. Hào được vẽ bằng vạch đứt là hào âm, gọi
là “lục”. Ví dụ: Hào 2 âm của quẻ Thiên Hỏa Đồng Nhơn là hào lục nhị.
Quẻ Càn ở trên có
hào 5 dương (cửu ngũ) làm chủ. Quẻ Ly ở dưới có hào 2 âm (lục nhị) làm chủ. Cả
hai hào này đều có đức trung chính, ứng với nhau rất tốt đẹp nên gọi là “thượng
hạ tương đồng” hay “thượng hạ đồng tâm”. Do đó, Thánh Nhân xưa đặt tên quẻ là “Thiên Hỏa Đồng Nhơn”. Đồng Nhơn
có nghĩa là người người cùng chung tâm hòa hợp trong xây dựng và bảo tồn cuộc
sống.
Mỗi quẻ trong Kinh Dịch đều có
lời bàn của Thánh Văn Vương gọi là Soán Từ. Mỗi hào đều có lời bàn của Thánh
Chu Công gọi là Hào Từ. Rồi lại có thêm lời giảng giải của Đức Khổng Tử trong
phần “Truyện”.
Đức Chúa dạy:
“Đây là một đoạn trong Hệ Từ Dịch Truyện, Đức
Khổng Phu Tử nhấn mạnh về việc đồng tâm, đại đồng của thiên hạ. Ta nên lấy đó
để hành đạo, giữ đạo mà xây dựng quyền pháp tương lai, cứu vãn lại nội tình
hiện tại.
Hệ Từ viết: ‘Đồng nhơn tiên hào đào nhi hậu tiếu.
Tử viết: Quân tử chi đạo, hoặc xuất hoặc xử, hoặc mặc hoặc ngữ, nhị nhơn đồng
tâm, kỳ lợi đoạn kim. Đồng tâm chi ngôn, kỳ xú như lan.’
‘Đồng nhơn
tiên hào đào nhi hậu tiếu.’ Câu này ở hào ngũ, quẻ Đồng Nhơn. Nói đến đồng
nhơn thật rất khó khăn. Song thời thế đã
đến, thì dầu ai không muốn đồng cũng không được.”
Thật vậy, cơ Trời vận chuyển
cho công cuộc xây dựng thế giới đại đồng. Thế nên, Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII
đã nói rằng Ngài được Thánh Linh thôi thúc khai mở Công Đồng Vatican II để mời
gọi đối thoại liên tôn giáo giữa Công Giáo và các tôn giáo khác trên thế giới.
Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã ban hành văn kiện chính thức tại Vatican vào ngày
28-10-1965 gọi là “Nostra Aetate” (có nghĩa là “Trong thời đại chúng ta” mà
chúng ta có thể hiểu là thời đại của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ với tinh thần vạn
giáo đồng nguyên và quy nguyên). Nostra Aetate chính là “Tuyên ngôn về những
quan hệ của Giáo Hội với các tôn giáo không phải Kitô Giáo”. Cũng trong năm
1965, Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam (nay là Cơ Quan Phổ Thông
Giáo Lý Đại Đạo) được Đức Thượng Đế thành lập với nhiệm vụ nối liền tình huynh
đệ.
“Đồng tâm là người này người kia, tuy không ở
chung với nhau, mà tâm sự vẫn đồng như nhau.
‘Tiên’
là trước. ‘Hào đào’ là kêu rêu than
thở. ‘Hậu’
là sau. ‘Tiếu’ là cười. Nghĩa là nói
đến sự đồng tâm, trước vì sao mà phải kêu rêu than thở? Kêu rêu than thở là vì
hai người đồng với nhau, mà chưa ngộ hợp cùng nhau, là vì trung gian có hào cửu
tam, cửu tứ ngăn trở, nghĩa là bị người ta phá, bị người ta gièm pha giành
giựt.
Nhưng lẽ phải cuối cùng cũng được ngộ hợp nhau mà
vui cười, sung sướng. Nói đến đồng tâm giữa người này với người kia, mà còn khó
như vậy, huống chi khối này khối nọ, làm sao dễ được?
Quân tử chi
đạo’ là đạo người quân tử ở chỗ đồng
tâm, để mưu toan việc đạo việc đời, mà lo cho nhơn loại. ‘Hoặc xuất hoặc xử, hoặc mặc hoặc ngữ’ nghĩa là kẻ ra gánh vác việc
đời, làm công việc nọ việc kia; kẻ thì ở yên một chỗ, ẩn dật tu hành, kẻ lại im
lặng mà làm thinh, còn kẻ thì khua chuông giục trống cảnh tỉnh người đời. Tuy xuất (ra làm quan) với xử (hoặc ẩn dật) khác xa, ngữ (nói) với mặc (nín) trái hẳn, song cũng đều lo cùng một mục đích như nhau, tuy
hoàn cảnh địa vị khác nhau. Nên mới có kẻ ẩn người hiện, kẻ nói người làm
thinh, vì thời và vị không giống nhau. Song đem đổi hoàn cảnh của người này cho
người kia, thì họ cũng làm như nhau không khác.
Đây nói cái đồng tâm, mà cái tích (việc thấy hiện
bên ngoài) bất đồng. Tâm là tinh thần.
Tích là hình thức. Tích mà đồng, tâm
không đồng, thì người quân tử không hề làm; mà mặc dầu tích không đồng, tâm
đồng, là đạo lợi cho thiên hạ. Nên mỗi người đã đồng tâm rồi, thì chia nhau mà
lo, kẻ làm việc nọ, người làm việc kia, ai cũng cúc cung tận tụy, các tận sở
năng của mình. Dầu ở xa ngàn dặm, những việc làm giống nhau như khuôn in rập.
‘Nhị nhơn
đồng tâm kỳ lợi đoạn kim’ nghĩa là người này
cùng người kia mà đồng tâm nhau rồi, thì núi cũng xô ngã được, biển cũng lấp bằng được. Người người
đều cảm mà hóa theo, thì khác nào một
đoạn sắt chặt một cái là đứt làm đôi.
Sức mạnh của đồng tâm ghê gớm, làm gì lại không được? Dầu cho trời đất cũng vui
nghe mà giúp đỡ.
‘Đồng tâm
chi ngôn, kỳ xú như lan’ nghĩa là lời nói của người đồng tâm tuy không ngọt
ngào mà ai cũng thích, tuy không nồng nàn mà ai cũng say, cảm đến người đến
vật. Lời nói thống thiết chân thành, mùi vị ngọt ngào, dầu sự thơm của hoa lan
cũng chỉ đến chừng đó là cùng. Sự đồng tâm tác hợp nhau, để lo xây dựng Đạo
Trời.
Đạo Trời cũng mưu tính, cải tạo loài người, tái
lập cuộc đời đại đồng thế giới. Mục đích ai là người có trách nhiệm trong nền tân
pháp Đại Đạo phải hướng vào đó mà tu sửa, mà mở mang. Song thế giới bước đến
đại đồng, trước phải đặt móng đắp nền ở gần, rồi mới đến xa, nghĩa là phải xây
dựng đại đồng trong đạo. Người này người nọ lấy thương yêu làm mục đích, lấy lẽ
thật làm nền tảng, cột chặt lấy dải đồng tâm.
Hãy xét quẻ Đồng Nhơn trong sáu hào.
Hào sơ cửu thì ‘Đồng nhơn vu môn.’ Nghĩa là đại đồng với người. Không phải ở trong
nhà mà nói đại đồng, cần phải ra khỏi cửa, để đồng cùng xóm giềng, làng nước,
giao du chỗ nọ, chỗ kia, mà kết tình bằng hữu, để cùng nhau chung lấy nhiệm vụ
đại đồng.”
Đức Giáo Hoàng Phanxicô từng
bảo rằng trong Thánh Kinh thuở xưa Chúa dạy “Ai gõ thì cửa sẽ mở”, tuy nhiên
ngày nay chúng ta không thể ngồi trong nhà chờ người đến gõ cửa mà cần phải mở
cửa bước ra ngoài giao tiếp với nhơn sanh để thực hiện nhiệm vụ cứu độ.
“Đến hào lục nhị, thì ‘Đồng nhơn vu tông’. Nghĩa là hào này đồng nhơn là đại đồng với
trong tông tộc, phe phái hệ thống của mình mà thôi. Đồng nhơn như thế cũng quá
hẹp chật, chưa đúng với đại đồng, nên người hướng đạo coi hào này mà cần mở
rộng phạm vi liên kết với bạn bè ở nhiều tôn giáo, học thuyết rải rác khắp mọi
nơi.
Đến hào cửu tam, thì cũng muốn đồng với người,
song đồng ấy là giành kéo về mình, làm của riêng cho mình, nên núp ở chốn bụi
gò mà rình để giựt lục nhị (hào âm).
Đến hào cửu tứ cũng vậy, song muốn được lục nhị,
phải cỡi lên cửu tam, nghĩa là trèo lên thành mà coi động tịnh. Hai hào này ở
trong quẻ Đồng Nhơn, mà đồng bằng cách giành giựt, tham lam, thì người hướng
đạo của ta không nên bắt chước.
Đến hào cửu ngũ, thì trước phải kêu rêu than thở,
sau dùng đến đại binh, mới trừ được trung gian phá hoại, mà hai bên mới hội ngộ
hợp nhau, vui cười sung sướng. Ôi! Đồng tâm mà khó như vậy, phải dùng toàn lực
đại vũ mới đi lên thành công. Điều đó, nhà đạo chắc không làm, vì chi mạnh cho
bằng đạo đức? Nên nói lấy đạo đức làm nền xu hướng, lấy cảm tình làm tướng giục
binh. Song cũng nhớ rằng việc làm dầu nhỏ dầu lớn, cũng bị điều trở ngại. Ta
phải đề phòng, mà cũng phải gắng công bền chí.
Đến hào thượng cửu, thì ‘Đồng nhơn vu giao’. Vu là đi. Giao nghĩa là giao du. Giao du ở gần
nhà mình, nước mình, thì cũng hẹp chật. Chỉ có lời Soán Từ là ‘Đồng nhơn vu dã’, đồng nhơn mà vu dã
(ra đồng trống) thiệt rộng lớn mênh mông, không bờ bến. Đâu phải ra khỏi cửa
hay ở trong tông phái mình mà thôi, còn kết thân tình huynh đệ đại đồng khắp
chỗ, đồng hoang hẻo lánh, đâu còn lựa chọn so cân.”
Đức Giáo Hoàng Phanxicô phát
biểu vào năm 2015: “Đối thoại liên tôn giáo không thể chỉ giới hạn cho một
thiểu số, hay cho các lãnh đạo những cộng đồng tôn giáo, mà còn phải mở rộng
càng nhiều càng tốt cho tất cả mọi tín hữu, gắn kết các thành phần khác nhau
của xã hội dân sự.”
“Vậy hôm nay ta cần đặt lại vấn đề, để rồi ngày
tới đây đặt mối tương quan, để thành một mối đồng tâm, mà chia lo việc đạo,
gánh vác việc đời, hầu đem lại một khối bình đẳng duy nhứt, không còn ranh giới
rẽ riêng.”
Trước khi kết thúc bài giảng,
Đức Chúa đã dặn dò các môn đồ phải gắng công bền chí, kiên nhẫn tiến lên không
lùi trước mọi khó khăn trở ngại để hoàn thành sứ mạng xây dựng thế giới đại
đồng cho nhân loại.
“Nơi đây gắng công một lần nữa để hoàn thành sứ
mạng, mặc dầu đã trải qua nhiều trở ngại, song cuối cùng cũng được kết quả.
Lòng đạo đức cứ tiến không lùi, dầu chưa làm xong, sau có người kế tiếp như Ngu
Công bạt núi,([1]) chim Tinh Vệ lấp
biển.([2]) Được hay không là ở Trời, còn bổn phận làm nên cố gắng.
Được học những lời dạy của các Đấng Thiêng Liêng trong
tinh thần Vạn giáo đồng nhất lý như thế, người tín đồ Cao Đài cảm thấy sung
sướng vô cùng khi được tắm mình trong bể đại dương lớn rộng của giáo lý Tam
Giáo, Tứ Giáo và vạn giáo. Các tôn giáo trên thế gian được ví như các dòng
sông. Muôn sông rồi cũng đổ về biển cả. Và khi đã về đến đại dương thì nước chỉ
còn một vị mặn thuần nhất, nào có còn phân biệt nước của dòng sông này hay dòng
sông khác.
Các bậc Giáo Tổ các tôn giáo thuở xa xưa, ngày nay trở
lại thế gian trong Tam Kỳ Phổ Độ để dạy Đạo cho nhơn sanh trong tinh thần Vạn
Giáo Nhất Lý; các Ngài nào có ngăn ngại, nào có phân biệt giáo lý của nền tôn
giáo do các Ngài sáng lập hay giáo lý các tôn giáo khác. Vậy thì tại sao chúng
ta lại ngăn ngại, lại phân biệt? Thế nên, Thiêng Liêng dạy người môn đệ Cao Đài
một tinh thần phá chấp tuyệt đối: “Cao Đài không phải là Cao Đài mới thật là
Cao Đài”; và kêu gọi mọi người
hãy: “Ngước mắt nhìn lên bầu trời to rộng,” ([3]) “vượt ra đại dương trời nước bao la,
chắp cánh bay bổng khắp bốn phương trời để phục vụ nhân loại, phụng sự Thiên
cơ, làm theo lòng trời đất.” ([4])
Nếu tất cả tín hữu
các tôn giáo đều làm được như vậy, cũng như thực hiện được hai chữ “đồng
tâm” mà Đức Chúa đã giảng giải qua quẻ Thiên Hỏa Đồng Nhơn trong Kinh Dịch, thì
chắc chắn rằng thế gian này sẽ không còn những cảnh thù hận rẽ chia, chiến
tranh tang tóc, loạn ly đau khổ cùng cực như hiện nay.
*
Kinh Thánh đã ghi chép lời Chúa dạy thuở xưa: “Phúc cho ai không thấy mà tin.” Thật
vậy, quả là hạnh phúc cho tất cả những ai tin rằng Đức Giêsu Kitô đã trở lại
trong thời đại chúng ta, dù mắt phàm chúng ta không nhìn thấy hình hài của Chúa
bằng xương bằng thịt.
Tuy nhiên, suy cho cùng, trong suốt hơn hai ngàn năm nay,
Đức Chúa chưa hề rời khỏi thế gian hay từ bỏ chúng ta. Ngài vẫn luôn hiện hữu
và ngự trị trong tâm lành của tất cả những ai biết hướng về Chúa và Ngài vẫn
luôn soi dẫn, đồng hành, tiếp sức cho chúng ta trên từng bước đường phụng sự,
yêu thương anh em mình theo lời Chúa dạy.
Xưa kia, sau buổi Tiệc Ly, Chúa dạy: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như
Thầy đã yêu thương anh em.” Vậy, ngày hôm nay và mãi mãi về sau, bất kỳ ai
trong chúng ta có được lòng yêu thương chân thật, thì chắc chắn là đang có Chúa
ngự ở trong người ấy và người ấy cũng đang ở trong Chúa. Đó cũng là một cách
rất cụ thể để chúng ta đón Chúa trở lại với chúng ta.
Xin nguyện cầu Đức Giêsu Kitô ban ơn soi dẫn cho toàn cả
nhân loại trên thế gian để mọi người cùng đồng tâm yêu thương nhau hầu xây dựng
bình an trên cõi thế.
Nam mô Gia Tô Giáo Chủ Cứu Thế Thiên Tôn.
DIỆU NGUYÊN
([1]) Sự
tích Ngu Công phá núi được ghi lại trong quyển Cổ Học Tinh Hoa của hai
tác giả Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc và Tĩnh Trai Trần Lê Nhân.
Ngu
Công là một ông lão tuổi đã chín mươi, nhà ở chân núi Thái Hàng và Vương Ốc
phía nam Châu Ký. Ngu Công thấy núi gây chướng ngại cho mọi người trong việc đi
lại nên quyết định huy động cả dòng họ phá núi mở đường. Cả nhà ông hợp sức với
nhau kẻ đục đá, người đào đất, kẻ đầu đội, người vai mang đổ đất đá ra biển
Đông hết ngày này sang tháng khác.
Có
một ông Lão tên Trí Tẩu thấy vậy cười Ngu Công và can: “Sao khờ dại vậy! Mình
thì tuổi tác, núi thì cao lớn, phá thế nào nổi!”
Ngu
Công thở dài nói: “Bền lòng thì việc gì cũng phải được. Ta già, ta chết, đã có
con ta. Hết đời con ta, đã có cháu ta. Hết đời cháu ta đã có chắt ta. Con con
cháu cháu sinh hạ vô cùng mà núi thì bao giờ cũng vậy, lo gì không bạt nổi.”
Trí
Tẩu nghe nói, nín lặng, không trả lời. Sau này
vùng nam Châu Ký không có núi non chướng ngại, đi lại thuận tiện là nhờ có Ngu
Công.