Thứ Ba, 23 tháng 6, 2020

THÁNH GIÁO: TU HÀNH LẬP ĐỨC, LINH TIÊU KHỨ HỒI / ĐẠO UYỂN THU 2020 (TẬP 35)


 Thánh giáo
TU HÀNH LẬP ĐỨC
LINH TIÊU KHỨ HỒI
Chí Thiện Đàn (Khổng Thánh Miếu, Minh Đức Nho Giáo
Đại Đạo, Trà Vinh) ngày 17-6 Giáp Dần (Chủ Nhật 04-8-1974).
Pháp đàn: Minh Dần. Đồng tử: Chơn An.
TIẾP ĐIỂN
PHÚ
THỔ độ tận hiền hòa nguyên vị ([1])
ĐỊA NAM PHƯƠNG đã chỉ rọi đường
TRẦN ai là bến tục đau thương
THẾ Tiên Phật dặm trường xuống tục
ĐỘ những kẻ hòa châu nhẫn nhục ([2])
Khổng Nho Gia thúc giục cứu đời
Nầy hiền đồ nam nữ đừng lơi ([3])
Lo phụng mạng,([4]) có Trời độ tận
Trường đạo đức miệt mài cho tinh tấn ([5])
Sáng lòa lòa khỏi bị quỷ chận giữa đàng
Trên nê hườn ([6]) chiếu diệu quang minh
Công lập đức Thiện Đàn ([7]) vì nhơn loại
Địa rất mừng hồng quang vạn đại ([8])
Bố siêu minh ([9]) để triêm trải ([10]) trần gian
Mong nam nữ chư đồ đệ Đạo vàng quán xuyến
Lo tu học Đạo vàng đừng làm biếng
Giấc ngủ ngon nhờ có điển nhắc chừng
Ó ò o gà gáy rộ khá khâm vưng ([11])
Lo tịnh luyện chín từng ([12]) sẽ tới.
Địa lai đàn chào chư Thiên mạng ([13]) phụng thừa.([14]) Nghiêm trang tiếp Đức Tôn Sư.
TIẾP LỊNH
THI
Đàn Nhu VĂN sĩ ([15]) hiệp hòa đồng
Khổng Mạnh TUYÊN đề cá hóa long ([16])
Chí thiện ([17]) KHỔNG Hy ([18]) còn để sáng
Tân dân THÁNH đức toại mây rồng.([19])
 Nầy chư hiền đồ,([20]) Lão cho phép an tọa… Từ ngàn xưa đến nay, nhơn loại có chép sử. Vậy chúng sanh nào ai có rõ sử là gì? Họa chăng có kẻ nguyên căn ([21]) mới tầm tòi học hỏi. Chúng sanh còn ương ngạnh chẳng biết Phật Trời, nên hôm nay mới có Đại Hội Long Hoa. Nói đến ngàn xưa còn hơi xa, Lão chỉ nói hiện tại, có mấy ai làm tròn. Gương hiền triết còn chẳng học, lựa là tìm Đạo nơi nào. Đạo bất di,([22]) mênh mông như biển cả. Đạo thậm thâm. Chỉ một kiếp nầy mà chưa tròn.
Cười… cười… Đời là chi mà làm cho chúng sanh mê say? Còn Đạo là chi mà chúng sanh chẳng học? Như Lão đây hài gai khổ cực mà chúng sanh còn biếm nhẽ, cười chê đủ cách. Lão đau thương cho nhơn loại. Chiêng cảnh tỉnh khắp cùng mà chưa tỉnh. Vậy còn tìm Đạo cao thâm ở đâu?
Đạo không hình thức nhưng vì đời chuộng hình thức nên Kỳ Ba Đức Ngọc Đế tạo hình thức để chúng sanh bắt chước mà học hỏi. Nói về hình nhi thượng ([23]) nào ai ưa chuộng.
Thương thay, trách thay! Vì bả lợi mồi danh ([24]) mà Đạo vàng ngơ lấp. Vậy đừng có trách Ngọc Đế.
Vì mùi danh cam đành quên Đạo
Vì mùi lợi không thạo đường Tiên
Ô hô! Xuống chốn huỳnh tuyền ([25])
Hỏi rằng nhơn loại đau phiền vì đâu?
Nhắc đến Đạo nhiều câu chua chát
Nhắc đến đời còn rát tâm vàng
Cam đành vào thở ra than
Ô hô! Vì bạc vì vàng đành cam!
Chư hiền ôi! Bảo làm tương đối
Đạo trường Tiên gỡ rối tục trần
Đạo đây tỉnh thức mê tân ([26])
Đạo dìu nguyên vị trở lần Kim Tiên.
Ôi! Nhắc đến Lão phiền nhân thế
Bao tang thương xác thể nát nhừ
Mà đành vì lợi khư khư
Thêm danh ảo ảnh thuyền từ ([27]) không sang.
Vì luyến tiếc bạc vàng đầy tủ
Bực Kim Tiên khuyến rủ không về
Ôm vàng rồi đắm biển mê
Lời châu ([28]) chẳng nghĩ, không về thì không.
Đạo thương đời nằm trong thường ngũ ([29])
Đạo vì đời nên rủ khách trần
Đạo dắt tránh khỏi mê tân,
Đạo dìu nguyên vị, lãnh phần tối ưu.
Đạo Trung Dung, trường Nhu mở rộng
Hỡi sĩ tài đức trọng tô bồi
Đức lành Đại Đạo cao ngôi
Đức hòa vi quý ([30]) trở hồi Linh Tiêu.([31])
Đạo thương đời cho nhiều bác ái
Đạo thương đời nên phải từ bi
Đạo thương hoạn nạn đó thì
Đạo thương cõi tục, Đạo thì hoằng phô.([32])
Nhắc đến Đạo, cơ đồ của Lão ([33])
Sở sang Tần hoài bão vì đời
Hài gai, áo tả ([34]) chẳng rời
Đau chân, rát dạ ai thời có hay?
Nhắc đến Đạo, nằm gai nếm mật ([35])
Lão vì đời, thành thật giúp đời
Gièm pha, xu nịnh chẳng rời
Lại còn châm biếm, vua thời lại nghe!
Nhắc đến Đạo, khắt khe đòi đoạn ([36])
Hỏi chúng sanh ai hãn ([37]) Lão nầy?
Chỉ lo sự nghiệp tạo gây
Nhiều tiền lắm bạc, danh đây ảo huyền.
Lão vì đời, không phiền chẳng trách
Nghiền ngẫm rằng ưu sách thượng thừa ([38])
Chỉ lo xã hội Lão ưa
Nại gì một kiếp mà đưa quan trường.([39])
Tâm bác ái, Lão thường dặn dạ
Muốn tròn tâm, đạo quả cho thành
Thì nên ngơ lấp lợi danh
Danh như bào ảnh,([40]) lợi thành cát bay.
Nguyện Ngọc Đế, Cao Đài thương xót
Đem lòng thành chuốt ngót tâm vàng ([41])
Hữu mang nhơn loại trần gian ([42])
Tả về nước Lỗ, Đạo vàng hoằng khai.([43])
Phụng mạng ân, chiếu rày phê chuẩn
Đem xác thân gầy dựng kiếp nầy
Sĩ Nhu tạo đức từ đây
Sân Trình cửa Khổng,([44]) cung mây Lão mừng.
Người chí sĩ chín từng vòi vọi
Tựa như là cây lõi thành châu ([45])
Thương đời, ta mảng bắc cầu ([46])
Lọ là nhân thế,([47]) phải sầu chúng sanh.
Người có Đạo nết lành vẫn tập
Dặn lòng mình e ấp thương đời
Thương đây, thương mãi không lơi
Thương vì người khổ, ta thời vẫn thương.
Tuy nhập học vào trường đạo đức
Dặn lòng mình chịu cực kiếp nầy
Trời thương ban Đạo cho gầy ([48])
Ta thương nhơn loại hòa xây cho tròn.
Đừng có bỏ cỏn con phước huệ
Ác tí rồi đừng để nơi tâm
Ta tu đạt lý huyền thâm
Minh quang chói rạng cố tầm mài châu.
Nhắc đến Đạo, chỉ câu bác ái
Thương kẻ phàm đâu ngại xuống trần
Tục Tiên, hai nẻo cân phân ([49])
Tiên thì thanh thoảng,([50]) kẻ trần trược hôi.([51])
Nhưng vì thương không ngồi lập vị
Xuống trần gian để chỉ lối đường
Chư hiền có phải Lão thương
Hay là như kẻ trần dương đó à?
Chư đệ tử Nho Gia đởm lược ([52])
Chỉ lý mầu lập chước ([53]) lai ngôi ([54])
Tịnh thiền huệ tánh cho rồi
Đắp bồi công quả cao ngôi đó hiền.
Xưa những bực Chơn Tiên hiền đức
Xuống trần gian chịu cực cổ khai ([55])
Hôm nay kim cổ đó rày
Soi chung hậu thế học bài Lão Đam.([56])
Đời đã mạt, ta làm tận tụy
Nhớ Đạo vàng có thỉ tròn chung ([57])
Mới thành đạo đức Trung Dung
Danh thơm khắp chốn yêng hùng tử quân.([58])
Hữu xạ hương,([59]) Lão mừng Chí Thiện
Các sĩ trò lưu diễn ([60]) dày công
Sá chi mà phải bận lòng
Nhớ rằng tôi ([61]) ở trần hồng, phải cam.
Ráng cố diệt lòng tham, định huệ
Học tam công, quy để luật đường ([62])
Tam độc ([63]) phải diệt, đừng vương
Sân Trình cửa Khổng, Lão thương chỉ rành.
Nam cùng nữ tạo thành Nho Giáo
Khổng Tử nầy hoài bão chở che
Tam thiên đồ đệ ([64]) e dè
Hội nầy Chí Thiện được nghe mật truyền.
Xả nghiệp chướng, trường Tiên cao rộng
Cho môn đồ quy thống tân dân ([65])
Đất Nghiêu chư đệ ân cần ([66])
Lựa bao giống Thuấn lần lần cho xong.([67])
Để đạt bảng Hoa Long kiếp chót
Trồng cây ngon được ngọt lại bùi
Ngày về Tam Giáo ([68]) còn vui
Hơn là mê thế, hôi mùi tanh tanh.
Chư đệ ôi! Tạo thành cửa Khổng
Cậy sĩ Nhu đức trọng đắp bồi
Cao thanh tợ núi nào trôi
Thấp kia thiếu đức, không rồi kiếp tu.
Đức để lại muôn thu tôn tử ([69])
Đức dầu ai đục thử không sờn
Đức dày vò lấy linh đơn
Để ban cõi thế không sờn mẻ chi.
Đức Tiên Phật ai thì muốn được
Lòng từ bi diệu dược ([70]) đổi chia
Huệ tâm cố gắng sớm khuya
Tịnh thiền sẽ rõ, đức về nơi nao.
Thiếu tu tịnh, khó vào trường Thánh
Tịnh mới thông, đoạt tánh như Trời
Tánh Phật khó nhọc hiền ơi
Tánh Tiên cao quý, người thời hùng anh.([71])
Mượn chữ Đạo để dành lưu niệm ([72])
Tập đức sâu muốn kiếm khó gì
Tâm hiền đủ chất trí tri ([73])
Tâm từ bác ái, tâm thì đức sâu.
Tâm nhớ lại đứng đầu vạn pháp
Tâm thông quang ([74]) trọn đáp nghĩa từ
Tâm thiền, tâm định, không hư
Tâm minh, tâm sáng, thiện từ, Lão đưa.
Thuyền Nho Giáo sẵn chừa ngôi vị
Dạy môn đồ xét kỷ ([75]) tận cùng
Nhơn luân ([76]) là đạo Trung Dung
Không xê, chẳng dịch, nhứt tùng nơi tâm.([77])
Đạo Trung Dung huyền thâm vi diệu
Tròn phận người mới biểu Tiên đề ([78])
Làm người trọn đức ai chê
Thiên kinh vạn quyển vỗ về bấy nhiêu.
Bên nam phái ráng dìu dắt bạn
Bước sân Trình phải hãn lý mầu
Đạo đức nhắc nhở từ câu ([79])
Đệ huynh tương ái, đứng đầu thế gian.
Lão xem xét Thiện Đàn tốt tánh
Mong làm sao không chạnh nhơn loài
Long Hoa giống tốt không sai
Môn đồ bền chí miệt mài từ đây.
Để vào lớp có Thầy nhắc nhở
Ở ngoài hè, ai trợ siêu thông ([80])
Lại thêm vướng tục mênh mông
Đau lòng Từ Phụ ([81]) lệ ròng như mưa.
Còn phái nữ sớm trưa ghi nhớ
Phận tam tùng ([82]) rạng rỡ cho tròn
Phước dày sánh tợ bằng non
Bồi công lập đức cho tròn kiếp ni.([83])
Rồi sẽ được xá chi ([84]) ngàn kiếp
Chư hiền ôi! Mau kịp trở về
Noi theo dấu thỏ đường dê ([85])
Mẫu Hoàng ([86]) trông ngóng, trở về mau đi!
Giã chư đệ long kỳ phất phới
Hiệp Thiên Đài ([87]) vun xới đất Nghiêu
Cữu Trùng ([88]) hoài bão thêm nhiều
Tu hành lập đức, Linh Tiêu khứ hồi.
Thăng.




u Chú thích của môn sanh Minh Đức Nho Giáo Đại Đạo (Trà Vinh). Ban Ấn Tống chèn thêm một ít chữ Nho cho phần chú thích.
([1]) nguyên vị 原位 (元位): Nguyên căn, nguyên nhân (nhơn), những người có căn cội từ Thiên Đình. độ tận hiền hòa nguyên vị: Độ hết những nguyên nhân hiền lành và ôn hòa.
([2]) hòa châu: “Hống diên” hay là “âm dương” hay là “rồng cọp” quấn quyện vào nhau. những kẻ hòa châu nhẫn nhục: Những ai luyện đạo (công phu) hãy nhịn nhục.
([3]) lơi: Lơi lỏng, ít quan tâm, ít chú ý tới nhiệm vụ.
([4]) phụng mạng 奉命: Vâng lệnh, tuân lệnh (của Trời).
([5]) tinh tấn 精進: Luôn luôn chuyên tâm nhất trí, cố gắng không ngừng để tiến bộ trên đường tu thân học đạo.
([6]) nê hườn 泥丸: Phần đỉnh đầu.
([7]) Thiện Đàn 善壇: Chí Thiện Đàn 至善壇.
([8]) hồng quang 紅光: Điển quang màu đỏ do Ơn Trên ban xuống. vạn đại 萬代: Muôn đời. hồng quang vạn đại: Hồng quang muôn đời (hồng quang bất diệt) từ cõi thượng thiên ban bố xuống.
([9]) bố : Ban bố rộng khắp. siêu minh 超明: Sự sáng siêu phàm.
([10]) triêm : Thấm. triêm trải: Thấm nhuần rộng khắp.
([11]) khâm vưng: Kính vâng (vưng) theo.
([12]) chín từng: Chín từng trời, tiên cảnh, thiên đàng.
([13]) chư Thiên mạng 天命: Các bậc hướng đạo đang nhận lãnh sứ mạng của Trời giao phó. Đồng nghĩa với Thiên ân sứ mạng.
([14]) phụng thừa 奉承: Vâng lệnh Ơn Trên mà làm theo.
([15]) Nhu : Nho. Nhu văn sĩ: người học đạo Nho.
([16]) cá hóa long: Theo truyền thuyết, Thiên Đình tổ chức một cuộc thi cho các loài thủy tộc để tuyển thêm rồng (long ) làm mưa. Cá chép lội ngược dòng, vượt qua được ba đợt sóng lớn nên đắc thắng, biến thành rồng. Văn học dùng thành ngữ cá hóa long ám chỉ người thi đậu. Long còn chỉ người tài đức phi thường. Sử Ký 史記 chép lời Đức Khổng Tử tán thán Đức Lão Tử: “Ngô kim nhật kiến Lão Tử, kỳ do long da!” 吾今日見老子, 其猶龍邪! (Nay ta thấy Lão Tử như con rồng!) Vào thời hạ nguơn này, cá hóa long ám chỉ người tu thi đậu (đắc đạo) trong trường thi Long Hoa do Đức Phật Di Lạc làm chánh chủ khảo.
([17]) chí thiện 至善: Sách Đại Học có câu: Đại học chi Đạo tại minh minh đức, tại tân dân, tại chỉ ư chí thin. 大學之道在明明德, 在新民, 在止於至善. (Đạo của cái học lớn là làm sáng cái đức sáng, đổi mới người dân, và tới chỗ rất mực tốt lành mới dừng lại.) Nói thêm: Do lịnh Ơn Trên qua cơ bút, Minh Đức Nho Giáo Đại Đạo cất Khổng Thánh Miếu (ở Trà Vinh), mở đàn Chí Thiện (ở Trà Vinh) và đàn Tân Dân (ở Nha Rộn, Bạc Liêu; sau này dời về Sài Gòn).
([18]) Hy: Chu Hy 朱熹 (1130-1200), một nhà Nho danh tiếng đời nhà Tống (Trung Quốc), đậu tiến sĩ năm 1148. Ông lấy hiệu Hối Am 晦庵, nên cũng gọi Chu Hối Am.
([19]) tân dân 新民: Dân mới, là người dân sống đời thượng nguơn thánh đức, sau khi lọt qua vòng khảo thí được dự Hội Long Hoa. toại mây rồng: Người dân mới trong đời thánh đức được thỏa nguyện, toại ý vô cùng, cũng như “rồng gặp mây, cá gặp nước”.
Bài thi xưng danh quán tâm là VĂN TUYÊN KHỔNG THÁNH 文宣孔聖. Văn Tuyên là một trong những tên thụy các vua Trung Quốc truy tặng Đức Khổng Tử. Tuyên có nghĩa là bày ra, tuyên bố. Tôn hiệu của Đức Khổng Tử thường kèm theo chữ Tuyên. Vào năm 1 đầu Công Nguyên, vua Hán Bình Đế tôn Ngài là Bao Thành Hầu Tuyên Ni Công 褒成侯宣尼公. Ni mượn từ tên tự của Ngài là Trọng Ni. Các thế kỷ sau đó, Ngài được tôn là Tuyên Ni 宣尼 hay Tuyên Phụ 宣父. Năm 739 vua Đường Huyền Tông tôn Ngài là Văn Tuyên Vương 文宣王. William Frederick Mayers dịch Tuyên là lỗi lạc (illustrious); dịch Tuyên Ni CôngIllustrious Duke Ni; dịch Văn Tuyên là học vấn lỗi lạc (Illustrious Learning). Năm 1008, vua Tống Chân Tông tôn Ngài là Huyền Thánh Văn Tuyên Vương 玄聖文宣王; năm 1012 lại tôn là Chí Thánh Văn Tuyên Vương 至聖文宣王. Ngài cũng được tôn là Tuyên Thánh 宣聖. (Xem: Huệ Khải, Tìm Hiểu Hai Bài Tiên Thiên Khí Hóa Và Quế Hương Nội Điện. Hà Nội: Nxb Tôn Giáo, 2012, tr. 70)
([20]) hiền đồ 賢徒: Người học trò đức hạnh; cách lịch sự khi gọi một học trò trong cửa đạo.
([21]) nguyên căn 原根 (元根): Cùng nghĩa với nguyên vị, nguyên nhân, là linh căn có nguồn gốc trên cõi trời, xưa kia nhận lãnh sứ mạng xuống thế gian độ đời.
([22]) bất di 不移: Không dời đổi, không đổi. Cũng như bất di bất dịch 不移不易.
([23]) hình nhi thượng 形而上: Phần dạy về Thiên Đạo (vô vi). Hình nhi h形而下 dạy về Nhân Đạo (hữu vi).
([24]) bả lợi mồi danh: Danh và lợi có sức cám dỗ, lôi cuốn con người vào chỗ hư hỏng xấu xa, gây nên tội lỗi, vì thế mà hại thân; do đó danh lợi được ví như miếng mồi tẩm độc để lừa giết thú vật (đánh bả).
([25]) huỳnh (hoàng) tuyền 黃泉: Suối vàng, chốn âm phủ, cõi chết.
([26]) mê tân 迷津: Bến mê, ám chỉ cõi trần.
([27]) thuyền từ (từ thuyền 慈船, từ hàng 慈航): Chiếc thuyền từ bi. Tôn giáo, đạo pháp ví như chiếc thuyền từ bi cứu vớt chúng sinh ra khỏi sông mê biển khổ. thuyền từ không sang: Không chịu lên thuyền từ để rời bến mê mà sang bờ giác; không chịu tu hành.
([28]) lời châu: Lời châu tiếng ngọc, lời Trời Phật, Tiên Thánh khuyên dạy, thức tỉnh người đời.
([29]) thường ngũ: Ngũ thường 五常. Năm đức tính con người phải luôn giữ, gồm có: Nhân là lòng thương người thương vật; Nghĩa là cách sống hợp lẽ phải, đạo đức; Lễ sự trang nghiêm, khuôn phép, đứng đắn trong tư tưởng và hành vi; Trí là sáng suốt, biết phân biệt phải trái nên hư, biết tiến thoái đúng lúc; Tín không dối trá, lừa gạt và làm đúng những gì nguyện hứa.
([30]) đức hòa vi quý: Đức thuận hòa là quý.
([31]) Linh Tiêu: Linh Tiêu Điện 靈霄殿, nơi Thượng Đế thiết triều.
([32]) hoằng phô: Phô bày rộng ra.
([33]) cơ đồ 基圖: Sự nghiệp. cơ đồ của Lão: Sinh thời, Đức Khổng Tử chu du nhiều nước, thuyết phục các vua chúa thi hành đạo của Ngài để dân chúng hưởng cảnh thái bình, no ấm.
([34]) hài gai, áo tả: Giày may bằng vải gai (bố), áo rách tả tơi; chỉ cảnh cơ cực.
([35]) nằm gai nếm mật: Chịu gian nan khổ sở để lo việc cứu đời.
([36]) đòi đoạn: Nhiều đoạn, nhiều khúc; ý nói lòng dạ rất đau đớn.
([37]) hãn: Biết rõ.
([38]) ưu sách thượng thừa: Kế sách tốt nhất, tối ưu.
([39]) Nại gì một kiếp mà đưa quan trường: Kể chi một kiếp ngắn ngủi mà đưa thân vào chốn danh lợi. (Kiếp này gặp được Đạo là rất quý, ráng cố gắng chịu cực khổ mà tu để thoát kiếp luân hồi.)
([40]) bào ảnh 泡影: Bọt nước và cái bóng, những điều không bền.
([41]) Đem lòng thành chuốt ngót tâm vàng: Thật lòng thật dạ trau sửa tâm tánh.
([42]) Hữu mang nhơn loại trần gian: Ban đầu Đức Khổng Tử muốn giúp đời bằng cách thuyết phục vua chúa thi hành đạo của Ngài để dân chúng được hưởng thái bình, no ấm.
([43]) Tả về nước Lỗ, Đạo vàng hoằng khai: Việc thuyết phục vua chúa không thành, Ngài quay về quê hương (nước Lỗ) dạy học và nhờ đó đạo của Ngài được mở rộng. (Hai chữ tả hữu 左右 [bên trái và bên phải] ám chỉ sự canh cánh bên lòng, một bên thì ... một bên thì ...)
([44]) Sân Trình cửa Khổng: Trường học đạo Nho. Trình: Trình Tử, một danh Nho thời Tống.
([45]) cây lõi: Phần lõi cây cứng cáp dùng làm thuyền. châu (chu) : Thuyền. cây lõi thành châu: Người chí sĩ như là cây cứng làm thuyền chở người sang bờ bên kia (đáo bỉ ngạn 到彼岸), thoát khỏi bến mê (mê tân 迷津).
([46]) mảng bắc cầu: Mải mê bắc cầu cho khách trần bước vào đường đạo.
([47]) lọ là: Chẳng cần, hà tất 何必. lọ là nhân thế: Không trách người đời không hiểu mình.
([48]) gầy: Gầy dựng, vun đắp.
([49]) cân phân: Cân nhắc mà lựa chọn.
([50]) thanh thoảng: Mùi hương nhẹ nhàng, dễ chịu.
([51]) trược hôi: Dơ bẩn và hôi thối.
([52]) đởm (đảm) lược 膽略: Không biết sợ và giỏi tính toán sắp đặt.
([53]) lập chước: Lập cách khôn khéo để thoát khỏi khó khăn.
([54]) lai ngôi: Trở lại ngôi vị cũ trên trời.
([55]) cổ khai 鼓開: Việc đánh lên tiếng trống; ám chỉ việc khai khẩu đồng tử (để thông công, tiếp điển Thiêng Liêng về cơ dạy đạo).
([56]) Lão Đam: Đức Lão Tử.
([57]) có thỉ tròn chung: Chung thủy, trọn vẹn, không bỏ nửa chừng.
([58]) yêng hùng tử quân: Anh hùng, quân tử.
([59]) hữu xạ hương: Tức là hữu xạ tự nhiên hương 有麝自然香, có chất xạ hương (một chất tiết ra mùi thơm, dùng làm nước hoa) thì tự nhiên sẽ tỏa ra hương thơm. Ý nói người có tài đức thì đời sẽ biết tới, không cần phải khoe khoang.
([60]) lưu diễn: Chuyển cơ phổ độ đi nhiều nơi.
([61]) tôi: Bề tôi. Người tu ở trần gian là bề tôi của Thượng Đế, nhận mệnh Trời hành đạo giúp đời (thế Thiên hành hóa) thì phải cam chịu gian khổ trăm bề.
([62]) tam công 三功: Công quả 功果, công trình 功程, công phu 功夫. Học tam công, quy để luật đường: Học và hành tam công đúng theo lời dạy và luật của Ơn Trên.
([63]) tam độc 三毒 : Tham , sân , si .
([64]) tam thiên đồ đệ 三千徒弟: Ba ngàn học trò. (Đức Khổng Tử mở rộng giáo dục đến mọi tầng lớp trong xã hội và nhận nhiều đồ đệ, có lúc lên đến ba ngàn người. Trước thời của Ngài, trường học chỉ nhận con em gia đình quý tộc.)
([65]) quy thống 規統: Quy tắc và nguyên lý chủ chốt. quy thống tân dân: Quy tắc và nguyên lý chủ chốt để xây dựng con người mới (tân dân) cho xã hội mới (đời thánh đức).
([66]) Nghiêu : Vị vua ở Trung Quốc cổ đại, nổi tiếng tài giỏi và đạo đức. Đất Nghiêu: Đất lành đời thánh đức, minh vương cai trị. Đời thượng nguơn thánh đức cũng gọi là cảnh trời Nghiêu đất Thuấn (Nghiêu thiên Thuấn địa). Đất Nghiêu chư đệ ân cần: Các em chăm lo chu đáo gầy dựng xã hội thánh đức mai sau.
([67]) Thuấn : Một người dân ở Trung Quốc cổ đại nổi tiếng có đức có tài, được vua Nghiêu truyền ngôi dù không phải là con ruột. giống Thuấn: Giống lành tài đức, để gieo vào đất Nghiêu sau này. Lựa bao giống Thuấn lần lần cho xong: Lựa những người hiền đức có tâm đạo mà dẫn dắt vào Đạo, để làm nhân tố tốt đẹp cho xã hội thánh đức sau này.
([68]) Tam Giáo: Tam Giáo Tòa.
([69]) tôn tử 孫子: Cháu con.
([70]) diệu dược 妙藥: Thuốc linh nghiệm.
([71]) người thời hùng anh: Người muốn thành Tiên, Phật phải noi theo gương Tiên, Phật và anh hùng, dũng mãnh diệt trừ hết những xấu xa, lầm lỗi bản thân.
([72]) lưu niệm 留念 : Ghi dấu.
([73]) trí tri 致知: Hiểu rõ, tường tận.
([74]) thông quang: Tiếp được điển quang của Ơn Trên.
([75]) xét kỷ: Xem xét bản thân tốt xấu ra sao.
([76]) nhơn luân 人倫: Đạo làm người.
([77]) nhứt tùng nơi tâm: Đạo là quy về bổn tâm lương thiện.
([78]) biểu Tiên đề: Được ghi tên n bảng Tiên (thành đạo, đắc quả).
([79]) từ câu: Từng câu.
([80]) Ở ngoài hè, ai trợ siêu thông: Nếu không nhập học trường Tiên thì không được nghe lời dạy của Tiên Phật, không được trợ giúp cho thành siêu phàm.
([81]) Từ Phụ 慈父: Cha Hiền, là Thượng Đế.
([82]) tam tùng 三從: Theo lễ giáo thời xưa, con gái chưa lấy chồng thì theo cha, khi có chồng thì theo chồng, chồng chết thì theo con trai. (Vị giá tùng phụ, ký giá tùng phu, phu tử tùng tử. 未嫁從父, 既嫁從夫, 夫死從子.)
([83]) kiếp ni: Kiếp này.
([84]) xá chi: Tha tội.
([85]) dấu thỏ đường dê: Đường lối đã vạch sẵn.
([86]) Mẫu Hoàng 母皇: Đức Phật Mẫu, Diêu Trì Kim Mẫu.
([87]) Hiệp Thiên Đài 協天臺: Bộ phận lo về phần vô vi, thông công giữa Ơn Trên và nhân loại hay giữa Trời và người.
([88]) Cửu Trùng: Cửu Trùng Đài 九重, bộ phận lo về phần hữu hình, về mặt xã hội, trợ giúp chúng sanh, cứu tế.