PHẬT
GIÁO HÒA HẢO
ĐỜI
ĐẠO SONG HÀNH
HUỆ
KHẢI
Huỳnh Hoài tên thật Bùi Thanh Hải, nên còn có bút
danh Hai Hỏi, ngoài các bút danh Dã Hạc, Hồng An, Phù Vân. Anh đã xuất bản một
vài tập sách nhằm cung cấp thông tin từ góc nhìn của một tín đồ Phật Giáo Hòa
Hảo, để giúp những người quan tâm tìm hiểu tôn giáo của anh. Cũng với mục đích
này, tập sách PHẬT GIÁO HÒA HẢO: ĐỜI ĐẠO SONG HÀNH vừa được xuất bản (Hà Nội:
Nxb Hồng Đức, tháng 4-2020, 186 trang 16x24cm, giá bìa 110.000 đồng).
Không kể Lời Giới
Thiệu (của Trần Văn Chánh), Lời Nói
Đầu (của Huỳnh Hoài), thì đây là một hiệp tuyển gồm mười lăm bài viết của
Huỳnh Hoài (cũng là Dã Hạc, Hồng An, Phù Vân), và tám bài của các tác giả khác
được sưu tập từ những sách đã xuất bản trước đây. Bởi vậy, thiển nghĩ rằng thay
vì dùng từ “chủ biên”, lẽ ra Huỳnh
Hoài có thể dùng từ “kết tập” (compiling) để đúng với kết cấu tập sách.
Rải rác trong sách có gần ba mươi ảnh minh họa mà một
số ảnh hay hình vẽ dường như chỉ nhằm trang trí, lẽ ra không cần thiết đưa vào
sách (tr. 40, 43, 45, 51, 87, 137, 155). Phần lớn các ảnh đều thiếu lời chú
thích kèm theo, nên dễ khiến cho ảnh minh họa đặt ở vị trí không thích hợp.
Chẳng hạn, có chỗ viết (tr. 15):
“Đêm ngày 11-11-1942
(02-9 năm Nhâm Ngọ), Sở Hiến Binh Nhật sai đội trưởng Kimura chở Huỳnh Giáo Chủ
về Sài Gòn, tại Sở Hiến Binh. Hai tháng sau được dời sang đường Lefèbre (nay là
Nguyễn Công Trứ).”
Thế mà ở trang 69 có in một ảnh Đức Thầy mà theo nhiều
tài liệu thì đây là ảnh chụp Ngài tại căn nhà ở đường Lefèbre nói trên. Sau này
nếu sách có dịp tái bản, mấy sơ sót vừa nêu nên được sửa chữa.
Mở đầu sách, Huỳnh Hoài nói ngay tới gương sáng hành thiện của đồng đạo (tr.
7):
“Thời điểm khó
khăn của cả nước thì khi nấu cơm họ bớt một, hai nắm gạo dành cho kẻ đi xin
hoặc làm ‘hũ gạo tình thương’ chuyển cứu đói cho người khốn khó nơi khác… Ngày
nay tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo còn đóng góp tiền, công sức để xây nhà tình
thương, bắc cầu làm lộ nông thôn, lập ra trại hòm từ thiện, phòng thuốc Nam, xe
cứu thương chuyển bệnh miễn phí xã phường nào cũng có. Còn bếp cơm từ thiện thì
hầu như bệnh viện nào cũng có bàn tay của ‘người Hòa Hảo’. Có nơi họ còn giúp
bữa cơm ‘ngọ phạn điếm’ cho học sinh, người lao động nghèo lúc nghỉ giờ trưa.”
Hành thiện là tu tập đức Nhân (tình thương đồng bào,
đồng loại), một yêu cầu trong đường lối Học
Phật Tu Nhân. Huỳnh Hoài giải thích đường lối này như sau (tr. 10):
“Theo đó con
đường tu được chia thành hai hạng, và phải trải qua hai bậc:
Đạo Nhân: Tránh
tam nghiệp, trừ thập ác, giữ tứ ân. (…)
Đạo giải thoát:
Đạo Nhân + Bát Chánh Đạo. (…)”
Về giữ tứ ân, Huỳnh Hoài giải thích rõ ràng (tr. 11):
“Người tín đồ
Phật Giáo Hòa Hảo phải biết tứ đại trọng ân để đáp đền (ân tổ tiên cha mẹ, ân
đất nước, ân tam bảo, ân đồng bào nhân loại), cả bốn ân đều trọng, không xem
nhẹ ân nào, tùy hoàn cảnh mỗi người mà gắng công đền đáp.”
Để nói thêm về đường lối Học Phật Tu Nhân, trong sách
(tr. 40-44) có bài của Do Đẳng Ng.
Về thờ phượng,
Huỳnh Hoài cho biết (tr. 24):
“Trong nhà người
tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo có ba ngôi thờ phượng:
Bàn thờ ông bà
(ngôi cửu huyền thất tổ).
Bàn thờ Phật
(ngôi tam bảo).
Bàn Thông Thiên.”
Bàn Thông Thiên là
“biểu tượng cho ba cõi: thiên, địa, nhân” (tr. 25). Về bàn Thông Thiên,
trong sách có bài Từ Bàn Ông Thiên Đến
Bàn Thông Thiên của Nguyễn Hiếu Trung (tr. 107-114). Sau này tái bản sách
nên bổ sung hình ảnh minh họa cho bàn Ông Thiên và bàn Thông Thiên.
Ngôi tam bảo có treo tấm Trần Dà thay cho Trần Điều
màu đỏ (tr. 24). Để nói thêm về tấm Trần Dà, trong sách có bài Tìm Hiểu Biểu Tượng Bức Trần Dà Của Phật Giáo
Hòa Hảo, tác giả là Nguyễn Hiếu Trung (tr. 122-128).
Sau năm 1947, thì “treo
chân dung Đức Huỳnh chỗ trang trọng tại tư gia để tưởng nhớ Đức Huỳnh”. Tín
đồ “chỉ xá chân dung Đức Huỳnh” mà
không lạy, “là do họ làm theo lời dạy của
Đức Thầy” (tr. 25).
Chú ý nhấn mạnh việc Phật Giáo Hòa Hảo thờ kính các
anh hùng dân tộc, Huỳnh Hoài có viết về “Chủ
Trương Thờ Thần Đất Việt” (tr. 78-86), và bài Nguyễn Trung Trực: Quan Thượng Đẳng Đại Thần Trong Phật Giáo Hòa Hảo (tr.
92-96, ký tên Dã Hạc).
Huỳnh Hoài dành một số trang để nói khái quát về tang
lễ, cầu nguyện cho người chết, bỏ tục đốt vàng mã, hôn nhân, cúng lạy khi ở nhà
và khi xa nhà, ăn chay kỳ, và cầu nguyện khi ăn cơm… (tr. 25-31). Tín đồ Phật
Giáo Hòa Hảo sống đời cư sĩ, tu hành tại gia, cưới vợ lấy chồng; do đó, những
thông tin nói trên giúp bạn đọc có khái niệm về đời sống thường nhật của tín đồ.
Sách là một hiệp tuyển, nên Huỳnh Hoài có điều kiện
đưa vào đó vài bài viết có khi chỉ để bàn cho rạch ròi một chi tiết nho nhỏ nào
đó. Chẳng hạn, bài về sợi “dây dùn”.
Anh dành nguyên ba trang (tr. 134-136) kèm minh họa để giải thích “dây dùn”, cho đối chiếu với một số
thành ngữ trong dân gian; thế nhưng lại bỏ sót một thành ngữ quen thuộc là “cầm cân nảy mực”. Nảy mực ở đây chính
là “búng mực, bật mực” mà anh nhắc
tới trong bài viết (tr. 135), và sợi dây
dùn mà anh giảng giải chính là hai chữ “thằng
mặc” 繩墨 (dây tẩm mực) của thợ mộc người Hoa mà người thợ xẻ
gỗ bên Anh, bên Mỹ gọi là “line marker”, “marking cord”, hay “plumb-line”…
Cuối sách (tr. 177-182), Huỳnh Hoài đính chính cho
một ngộ nhận rằng bài “Mười Điều Khuyến
Tu” là do Đức Phật Thầy sáng tác. Sự đính chính này rất cần thiết và lời anh
đính chính rất đúng.
Bản thân tôi có chút kỷ niệm với bài “Mười Điều Khuyến Tu” này. Vào giữa thập
niên 1970, tôi phát tâm tìm đạo. Bấy giờ, một bạn thân từ thời trung học cũng
đồng chí hướng có dịp làm quen các ông đạo ẩn tu ở núi Sam đã chép tặng tôi
trọn bài này trên mấy trang giấy tập học trò, bảo là “Đức Thầy” ban cho. Và tôi
đinh ninh như vậy, đã học thuộc lòng, còn nhớ tới bây giờ.
Khoảng ba thập niên sau đó, tôi được đạo huynh Đạt
Truyền ─ thế danh Hà Văn Phủ (1938-2014), thân phụ linh mục Phêrô Giuse Maria
Hà Thiên Trúc ─ tặng cho bản photocopy Sấm
Giảng Trung Giang thì mới vỡ lẽ đây là thánh giáo bên Thiên Khai Huỳnh Đạo
(cũng cầu cơ thông công với các Đấng thiêng liêng). Trong sách của mình (tr.
178-181), Huỳnh Hoài có sao chụp lại trang bìa và một số trang ruột của quyển
thánh giáo này.
Mấy năm sau nữa, tình cờ ghé vào một website Cao Đài
ở hải ngoại, tôi thấy trọn bài “Mười Điều
Khuyến Tu” được tải lên đó, và ban quản trị website ghi chú là lời dạy của
một vị tiền khai Cao Đài, địa vị rất cao trọng trong lịch sử Đại Đạo Tam Kỳ Phổ
Độ (tôi xin ẩn danh ngài). Biết là có sự ngộ nhận, tôi bèn gởi điện thư đính
chính, nhưng không nhận được lời hồi âm nào từ ban quản trị website.
Tôi vừa liên hệ chút “dính dấp” như trên để chia sẻ
với Huỳnh Hoài rằng sự ngộ nhận về Đấng thiêng liêng là tác giả bài “Mười Điều Khuyến Tu” không chỉ có trong
tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo mà còn có cả trong cộng đồng môn đệ Cao Đài nữa.
Nguyên do có lẽ vì nội dung khuyến tu này rất truyền cảm, thấm thía, gần gũi,
và phù hợp với đời sống cư sĩ tại gia. Những lúc bản thân phiền não vì thử
thách trên đường tu, tôi hay ngâm nga mấy câu trong đó để tự an ủi: “Thiệt thòi cam chịu đã đành / Vô vi phẩm vị
Thầy dành cho con.” Hay là: “Biết
rằng con phải hy sinh / Phật Tiên đâu nỡ quên tình hay sao?”
Trên đây tôi chỉ mới nói “loáng thoáng” về tập sách
của Huỳnh Hoài, tức là chưa đầy đủ những gì anh muốn trao gởi bạn đọc gần xa. Vậy,
cuối cùng, điều chúng ta nên đồng cảm với Huỳnh Hoài là gì?
Xin thưa như sau:
Thư tịch về Phật Giáo Hòa Hảo đến nay có thể nói là
vẫn còn mỏng lắm, và trong đó, những thông tin trong sáng, khả tín do chính các
tín đồ thuần thành công bố hầu như hãy còn rất ít ỏi. Điều này chắc chắn là một
nỗi niềm canh cánh bên lòng của các bậc trí thức là môn đệ trung tín của Đức
Thầy, vốn chỉ đau đáu mong cho đồng đạo lẫn người ngoài đạo có thể hiểu biết
đúng đắn lịch sử, giáo lý chân truyền, đường lối Học Phật Tu Nhân, v.v…
Trong hoàn cảnh ấy, bởi thế, tập sách của một bạn trẻ
như Huỳnh Hoài, dẫu chưa thật sự tròn trịa về phần kỹ thuật biên khảo như mong
muốn của những bạn đọc khó tánh (vốn thích cầu toàn), nhưng vẫn là rất đáng hoan
nghênh, rất nên hoan hỷ đón nhận, một khi người đọc xét về mặt tâm đạo, về mục
đích của Huỳnh Hoài là muốn được góp thêm một tiếng chuông trong trẻo ngõ hầu chiêu
tuyết ít nhiều ngộ nhận đã từng có đối với nền tôn giáo bản địa (indigenous) hay nội sinh (endogenous) mà đấng Giáo Chủ khai sáng
đã vắng mặt thế gian quá sớm, vào năm hai mươi bảy tuổi (1920-1947).
HUỆ
KHẢI
Nhiêu Lộc,
31-5-2020