HỒN
MA CŨ
Đâu
đây đồng vọng cõi xa xưa
Thổ
ngơi thơm phức, hồn ma
cũ...
BÌNH
NGUYÊN LỘC
Kỳ đẩy xe đạp qua các bờ đất, ra tới ngả
ba Cầu Kinh, thì mặt nhựt mới tô lợt son Tàu lên tấm nền trời dựng sau những
ngọn dừa nước ở hướng Đông.
Từ đó mà ra Sài Gòn, vào giờ đường vắng,
chỉ mất mười lăm phút là cùng; Kỳ cũng chẳng có công chuyện gì cần phải làm
sớm. Thế mà chàng cũng cứ dậy khuya mà đi như mọi ngày.
Qua đường Hàng Sanh, qua đường Hàng Bàng,
qua đại lộ Hai Bà Trưng, xuống “Một Hình”,([1]) rồi
đổ ra Chợ Cũ. Kỳ đi thật là lòng vòng, do các nẻo xa nhứt để đi tới đích.
Chợ Cũ còn giụi mắt, trừ các tiệm cà phê.
Kỳ sung sướng như về quê nhà và vào ngay tiệm nước ở góc hai phố X.Y.
Chàng ngồi trước chiếc bàn con đặt sát
vách, không nhìn ai hết, cốt tránh thấy. Chàng muốn nghe nhiều và ngửi sâu. Ở
đây có những tiếng động, những âm thanh, những mùi vị quen thuộc và rất thân
yêu mà chàng mến thích.
Ngoài sau bếp, người thợ xíu mại bằm thịt
bằng hai con dao Tàu, mà hắn hạ lưỡi dao xuống thớt theo một nhịp điệu kỳ lạ,
nghe như một khúc nhạc man rợ nhưng vẫn êm tai. Những anh phổ ky hô món ăn hoặc
hô số tiền, mà khách phải trả, không phải bằng văn xuôi, mà bằng lời hát có ca,
có kệ đàng hoàng. Khi một người khách đứng lên, hắn hát to cho anh thủ quỹ
nghe: “Ạ... a... người đội nón nỉ đen á... à... à... sáu đồng lẻ bảy cắc ạ... a...”
Lẽ cố nhiên, hắn hát bằng tiếng Tàu, thổ ngữ Quảng Đông, nên câu hát thành dài
lê thê, vì những á... a, á... à, nghe rất thú vị. Có một câu ngắn bạc tẩy tảl tống mùl mà hắn làm được một
bài hát nhỏ, nghêu ngao đến lúc tách sữa trứng gà bưng ra tới bàn khách, bài
hát mới dứt.
Mùi bánh bao hấp từ các xửng dưới lò bốc
lên, mùi cà phê rịn ra từ những chiếc vợt đầu tiên trong ngày, tất cả những
tiếng và hơi ấy tạo thành một không khí, mà Kỳ rất thích.
Ngày nay, các tiệm cà phê các chú, phần
đông đã đổi mới, không ca hát lăng nhăng nữa, không bằm dao trên thớt theo một
nhịp điệu riêng nữa, nên Kỳ chỉ vào tiệm nầy thôi. Chàng đã ghiền không khí ở
đây, ghiền cả thời gian nữa; phải ngồi tiệm vào lúc thật sớm, như bây giờ, mới
hưởng đầy đủ không khí một tiệm cà phê các chú ngày xưa.
Cho đến cái dơ bẩn trong tiệm nầy, chàng
cũng yêu, vì đặc tính ấy là yếu tố không khí kia, thiếu nó không xong. Những
anh phổ ky lén cảnh sát, cởi trần ra, chàng thấy là ngồ ngộ, hợp với toàn thể
của tiệm nước bình dân nầy. Ăn mặc đàng hoàng và sạch sẽ, họ sẽ giống những lọ
sứ cổ bày trong nhà tranh.
Kỳ còn ghiền một yếu tố nữa, mà không
phải lúc nào cũng đòi hỏi dược. Đó là những buổi sáng sớm mưa dầm. Bên ngoài
mưa gió lạnh, mà được ngồi trước một tách cà phê lên hơi, bên cạnh cái lò chụm
trấu, thì thú tuyệt vời. Càng thú hơn, khi nghe một anh phổ ky đối đáp với
khách hàng:
- Nị không lạnh sao, mà ở trần?
- Hà cái lầy pên Tàu lặng lắn (lạnh lắm) qua pên lây (bên đây) lực lắn (nực lắm), khoong pết (không
biết) lặng mà...
Nghe câu nói ấy, không khỏi nghĩ đến một
xứ rét run, và mình càng cảm thấy ấm hơn trong tiệm nầy.
Kỳ ngồi làm thinh, không kêu món uống.
Thế mà anh phổ ky lại hát lên: “Vách bên trái, cà phê không thật đậm, nhớ lược
bằng vợt mới, nghe không!” Rồi người thủ quỹ kiêm nhơn viên rót cà phê, nhìn
chàng một cái, đoạn thi hành y theo lời phổ ky dặn dò.
Đó là yếu tố quan trọng nhứt của không
khí tiệm nầy. Đây là một tiệm cà phê lâu đời và nhứt là một tiệm cà phê giữ
truyền thống của họ, nên họ có những người khách lâu năm, rất lâu năm. Họ thuộc
lòng từ ý muốn nhỏ của mỗi người khách: Người nầy ba muỗng đường; người kia một
muỗng rưỡi thôi. Còn khách thì không thốt ra lời nào cũng có kẻ dưng tới tay
món uống vừa ý.
Kỳ lấy muỗng nhỏ dò đáy ly cà phê đen như
thuốc Bắc: Chỉ có độ một muỗng đường cát ở dưới ấy thôi, thật là đúng sở thích
của chàng. Chàng gác muỗng lên miệng dĩa, cúi xuống hớp một hớp cà phê, chắp chắp
lưỡi để lặng nghe mùi thơm của nó, đoạn ngước lên, tay giỡn với mấy cái dĩa
giò-cháo-quẩy và bánh bao.
(. . .)
Kỳ nâng ly lên uống một ngụm cà phê còn
quá nóng, chưa nốc được một hơi dài. Vả, chàng lại mong cho nó nóng mãi như thế
nầy, uống chấm chút mới ngon. Cà phê uống ở nhà thật vô vị, uống nơi tiệm khác
lại nhạt phèo. Ngồi đây mà tận hưởng cà phê và các thứ khác dính líu chặt chẽ
vào cà phê nầy, hay biết bao!
Ngày nào cũng thế, chàng ngồi đó như một
vị tiên bất tử. Khách hàng, hết lớp nầy đến lớp kia ra vào, y như các thế hệ
người kế tiếp nhau mà tàn mọc trên dương thế, còn chàng thì ở ngoại càn khôn mà
nhìn những kiếp sống phù du nầy.
Ngộ quá, mỗi giờ khắc, một hạng người
khác nhau. Sau chàng là những người làm công các tiệm chung quanh; hết họ, đến
những kẻ đi làm; hạng sau cùng là những người không nghề nghiệp, hoặc không
thời dụng biểu nhứt định.
Khi mà không khí ưa thích lần tan cùng
một lượt với đèn tắt, ngày lên. Kỳ mới chú ý nhìn người và vật chung quanh.
Những gương mặt của thầy thợ quen mọi ngày, nhìn mãi không thấy gì lạ, mà không
có thì không xong. Cây cối quanh làng ta, có khi vướng mắt ta lắm. Nhưng nếu có
một hỏa hoạn xảy ra trong làng, mọi vật đều bị thiêu hủy, thì ta tiếc những gốc
cây quen thuộc biết bao nhiêu! Nó là những nét của cảnh trí, những vật ở chân
trời cũ, thiếu đi, nghe buồn làm sao.
Hôm nay, một thầy lại đem theo một thằng
con nhỏ. Thằng bé độ mười tuổi, tay cắp cặp da, chừng như đi học đâu đó mà hôm
ấy không người nhà đưa, nên người cha mới phải bận bịu như thế, lúc đi làm.
Hai cha con ngồi lại bàn. Người cha kêu cà
phê cho mình và sữa cho con, nhưng kêu bằng thổ ngữ Quảng Đông, nên thằng bé
không hay biết. Chừng phổ ky đem món uống lại, nó mới nói:
- Ba ơi, con muốn uống cà phê như ba!
- Ê, trẻ con không nên uống cà phê.
Người cha vừa nói, vừa xé cái bánh tiêu,
nhét xíu mại vào để làm nhưn, rồi trao cho con.
Kỳ, bỗng nhiên giựt mình, ngó dáo dác như
nghe ngóng cái gì. Không, không có gì cả! Nhưng chàng không an lòng, có cảm
giác là tiếng động gì, hình ảnh gì vừa thoáng hiện, lại trốn đi và đang lẩn lút
đâu đây. Tiếng động ấy, hình ảnh ấy ra sao, chàng không rõ, nhưng cứ tin là nó
dễ yêu lắm.
Liền đó, một cuộc săn đuổi ráo riết. Kỳ
rượt theo một ấn tượng, một cái gì vô hình, lấp ló đâu đây. Có lúc chàng suýt
chụp được nó, nhưng nó lại vuột đi. Những gì xảy ra quanh chàng, bỗng giờ phút
nầy, sao mà nghe thấy rất xa xôi, như đã nghe thấy đâu từ kiếp tiền thân.
Thình lình Kỳ ngây người ra: Chàng vừa
thấy người cha đứa bé rót cà phê ra dĩa cho mau nguội, rồi nâng dĩa lên mà
uống.
Cảnh nầy, chàng đã thấy rồi... Trời ơi...
lâu lắm... những hai mươi năm về trước. Đó là lối uống trong dĩa của ông ngoại
chàng, một ông cụ nhà quê, thỉnh thoảng dắt cháu ra chợ để hưởng thú thị thành.
Hình ảnh uống cà phê bằng dĩa nầy, như
bấm vào nút điện, và cả một bộ máy được huy động. Những người của dĩ vãng như
hồn ma, lũ lượt kéo qua trước mặt chàng.
Hồn ma cũ ấy chỉ hiện về trong cảnh náo
nhiệt nầy, là vì có cuộc trùng phùng cơ hội như hôm nay: thời gian, nơi chốn,
màu sắc, hình ảnh, mùi vị, tiếng động, âm thanh; tất cả những thứ ấy, khi đủ
mặt, họp nhau để huy động ký ức của chàng.
Bấy giờ, Kỳ mới hiểu, tại sao chàng lại
ưa thích tiệm cà phê nầy. Hồn ma cũ ngủ yên nơi tiềm thức của chàng. Đó là
những hồn ma thương mến. Tiệm cà phê nầy có gần đủ điều kiện để kêu gọi hồn ma.
Gần đủ nhưng chưa bao giờ đầy đủ, nên tiềm thức chàng ngủ quên luôn. Ngủ quên,
nhưng vẫn giục chàng đến đó, mà chàng không biết tại sao, chỉ hôm nay mới hiểu
rõ.
Thì ra, tiềm thức đã chủ động nhiều việc
trong đời người, trong đời chàng; những việc ta làm, mà cũng không hiểu vì sao
mà làm.
(. . .) Chàng thường theo ông ngoại ra
chợ uống cà phê... Chàng ra tỉnh học... Chàng lên Sài Gòn... Ma nhiều lắm! Ôi!
Mến yêu là những con ma tóc còn đường rẽ, áo quần còn hôi mùi ruộng bùn, cùng
nhau ngơ ngác giữa đô thành! Ôi! Bùi ngùi là những con ma giáo sư ([2]) tóc
muối tiêu mà bây giờ, hẳn đã đi đầu thai kiếp khác rồi.
BÌNH NGUYÊN LỘC
PHỤ ĐÍNH
Đầu tháng 2 năm 1859 Thủy Sư Đề Đốc
Charles Rigault de Genouilly (1807-1873) chỉ huy hải quân Pháp đánh thành Sài
Gòn, do vua Minh Mạng cho xây hai mươi ba năm trước. Tàu chiến giặc thả neo tại
đoạn sông mà nay thuộc về phạm vi công trường Mê Linh, quận 1. Ngày 17 Pháp tấn
công và hôm sau đoạt thành. Có lẽ sợ quân Nam chiếm lại, ngày 08-3-1859
Genouilly cho đặt ba mươi lăm ổ cốt mìn phá thành tan nát và còn sai đốt bỏ kho
lúa dự trữ của triều đình đủ nuôi từ sáu đến tám ngàn miệng ăn trong vòng một
năm. Đầu năm 1862 lửa tro ở kho lúa cũ vẫn còn âm ỉ.
Chỗ quân Genouilly đổ bộ, về sau người
Pháp làm công trường, đặt tên là Place Rigault de Genouilly, còn dựng tượng
đồng to lớn để ghi thành tích tay Đề Đốc ấy. Phản kháng kẻ xâm lược, người Sài
Gòn xưa quen gọi xách mé nơi đó là “Một Hình”, lại đồn đãi rằng trong những đêm
mưa bão, hồn y trở về đứng trên bờ gọi đò sang sông. Ngụ ý đền tội chưa xong,
nên chưa siêu rỗi. Mãi đến mùa Thu năm 1945, người Sài Gòn mới có thể hè nhau
giật đổ tượng đồng, rồi đem nấu chảy để đúc vỏ đạn góp công giết giặc.
Tượng đồng “Một Hình”
In trên bưu thiếp xưa
(Trích: Huệ Khải, Mỏng Mảnh Tơ Trời. Hà Nội: Nxb Hồng Đức 2017, tr. 87-88.)