Thứ Sáu, 30 tháng 6, 2017

ĐĐVU 23 / Thánh giáo: TRUNG THU NHÂM TÝ ĐỨC MẸ BAN Ơ


Diêu Trì Bửu Điện (thánh thất Bình Hòa, Gia Định)
Tuất thời, 15-8 Nhâm Tý (Thứ Sáu 22-9-1972)
Thông công: Bộ phận Hiệp Thiên Đài hỗn hợp gồm
Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam
và Thiên Nguyệt Lâm Huyền Châu (Hội Thánh Hậu Giang)
Pháp đàn: Chơn Tâm. Đồng tử dương: Kim Quang.
Đồng tử âm: Thanh Phước. Độc giả: Huệ Chơn.
DIÊU TRÌ KIM MẪU VÔ CỰC TỪ TÔN
MẸ LINH HỒN CÁC CON NAM NỮ
Các con ôi!
THI
Thương con cực nhọc bấy nhiêu ngày
Góc biển ven trời hội đến đây
Dự lễ Trung Thu chầu Đức Mẹ
Thế nên Mẹ trở lại đàn nay.
Mẹ miễn lễ. Các con đồng an tọa để nghe lời Mẹ dạy.
Các con ôi!
THI
Lắm kiếp nhiều đời đã xuống lên
Mang nhiều quốc tịch tuổi và tên
Loanh quanh trong bánh xe luân chuyển
Vì bởi quên căn với móng nền.
THI
Móng nền đạo lý dạy con hiền
Tôn giáo khai minh Phật Thánh Tiên
Cạn mực bút mòn thiên vạn điển ([1])
Nhưng con học hỏi có bao siêng.
THI
Vì thế nên gây lắm nghiệp trần
Mấy đời mấy kiếp dấn vào thân
Trả vay vay trả hoài chưa rảnh
Sanh tử tử sanh với nợ nần.
THI
Tu một rồi con tạo nghiệp hai
Thế nên phá sản chốn Thiên Đài ([2])
Khi lâm trần thế toàn căn thiện
Vì vậy chuyển luân mãi thế hoài.
THI
Tam Kỳ nay đã gióng hồi chuông
Cho kẻ nguyên căn ([3]) tỉnh mộng hồn
Kíp kíp quay về đừng lạc lõng
Để cho lòng Mẹ ngóng trông buồn.
THI
Buồn thương con trẻ đã say mê
Lặn hụp trần lao ([4]) chưa chịu về
Tứ khổ bốn tường ([5]) giam trẻ mãi
Làm con quên mất những lời thề.([6])
THI
Thề rằng xuống thế luyện linh đơn ([7])
Hành đạo giúp đời tế trợ nhơn ([8])
Công quả công trình tu luyện kỷ
Vẹn tròn phận sự phục lai huờn.([9])
THI
Thế mà con trẻ nhớ chi đâu
Tạo nghiệp oan gia mãi dãi dầu
Nhỏ lớn rồi già, đau lại chết
Xuống lên, lên xuống cảnh đau sầu.
THI
Ngày nay con trẻ chớ say mê
Thức tỉnh lo tu sớm trở về
Tém vén việc đời cho gọn gọn
Song tu đời đạo mới an bề.
THI
Đừng rằng tại bị ([10]) lắm nghe con
Việc méo khéo tu cũng được tròn
Tên tuổi các con đừng để mất
Diêu Cung Mẹ sẵn bút và son.
THI
Để ghi tên tuổi trẻ tu hiền
Hành đạo giúp đời cần mẫn siêng
Sớm tối đạo đời toan liệu gánh
Sao cho khỏi hổ mặt trò Tiên.
THI BÀI
Thu Nhâm Tý mấy dòng Mẹ để
Cho các con trần thế ghi lòng
Tu là lóng đục tầm trong
Phân thanh khử trược từ lòng đến thân.
Con hỡi con! Phong trần nặng nợ
Con hỡi con! Chớ ở lâu dài
Dẫu rằng có luyến trần ai
Đừng gây nghiệp xấu dông dài nghe con.
Hãy làm phước tu bòn công đức
Hãy làm nhân góp sức chung công
Việc chi mình chẳng hài lòng
Đừng làm kẻ khác trong vòng thế gian.([11])
Lựa việc tốt ngay đàng thẳng lối
Chọn việc lành thúc hối nhau làm
Việc đời con đã quá ham
Còn đâu giờ giấc để làm công phu.
Con hỡi con! Lo tu kíp kíp
Con hỡi con! Còn kịp quay về
Về nơi bến giác trọn bề
Để xa bến muội sông mê cuộc đời.
Đêm thu nay Mẹ đề mấy đoạn
Điểm danh con đã ráng quá nhiều
Cho con an ủi bấy nhiêu
Cho con vui dạ sớm chiều lo tu.
(...) ([12])
Rằng hành đạo là đi độ chúng
Chúng sanh còn bị lún trần lao
Đàn con lố nhố lao nhao
Đó là sanh chúng mau mau dắt dìu.
Mẹ ban ơn cho các con nam nữ tại địa phương đã góp công khó nhọc vào Đại Hội Hòa Đồng Nữ Đạo. Mẹ ban ân cho các con trong Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, Nữ Chung Hòa cũng như Thanh Thiếu Niên. Mẹ ban ân cho các con đại diện các nơi về chung công góp ý với ngày Đại Hội.
(...)
Thôi đêm đã khuya, các con mệt mỏi, Mẹ tạm giã từ các con và ban ân điển cho các con. Bảo Pháp Phụ Tá cùng Chưởng Nghiêm Pháp Quân hãy đem vào đây một bầu bạch thủy để Mẹ ban ân điển thay thế cho bồ đào tiên tửu([13]) hầu sau khi xả đàn các con chung nhau mà hưởng.
THI
Mẹ từ Diêu Điện đến trần gian
Chẳng có bồ đào để xách mang
Hầu đặng đãi con cho phỉ dạ
Nên dùng bạch thủy điển ân ban.
THI
Ban ơn con trẻ khắp trung đàn
Đồng ẩm hồng ân Đức Mẹ ban
Để trợ thân tâm cho mẫn tuệ
Vượt bao thử thách của trần gian.
NGÂM
Ban ân con trẻ trung đàn
Chí tâm hành đạo, Thiên Đàng Mẹ lui.
Thăng.



([1]) thiên vạn điển 千萬典: Vô số lời hay đẹp làm chuẩn mực đạo lý.
([2]) Thiên Đài 天臺: Hiểu theo nghĩa rộng là cõi thượng giới.
([3]) nguyên căn : Cũng như nguyên khách 原客, nguyên nhân 原人; những linh căn 靈根 nguồn gốc từ cõi trời, xưa kia nhận lãnh sứ mạng xuống thế gian độ đời.
([4]) trần lao 塵牢: Lao tù cõi trần. Cảnh thế gian ràng buộc làm con người mất tự do (vì bị lục dục, thất tình sai khiến), thế nên cõi trần giống như chốn lao tù.
([5]) tứ khổ 四苦: Sinh, lão, bệnh, tử. bốn tường: Cũng gọi bốn vách, tứ đổ (tứ đổ tường) 四堵牆(). Bốn thứ giam hãm con người trong ham muốn và nghiện ngập, khiến con người mất tự do, giống như bị nhốt trong bốn vách (đổtường đều có nghĩa là vách tường). Đó là tửu, sắc, tài, khí (rượu, sắc dục, tiền bạc, và ma túy).
([6]) những lời thề: Những lời phát nguyện xuống thế độ đời khi từ giã cõi trời.
([7]) luyện linh đơn: Ý nói tu luyện cho đủ huyền năng độ đời.
([8]) tế trợ nhơn: Giúp đỡ mọi người.
([9]) phục lai huờn: Trở về chốn cũ là cõi trời, vì nguyên căn đã từ đó đi xuống thế gian.
([10]) đừng rằng tại bị: Đừng đổ thừa, tìm lý do chống chế cho việc chậm trễ tu hành.
([11]) Việc chi mình chẳng hài lòng / Đừng làm kẻ khác trong vòng thế gian: Đây là luật công bình. Đức Khổng Tử dạy (Luận Ngữ, 15:24): Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân. (Điều gì mình không muốn kẻ khác gây cho mình thì mình đừng làm điều đó cho họ.)
([12]) Đức Mẹ điểm danh và ban ơn một số vị hầu đàn.
([13]) bồ đào 葡萄: Trái nho. bồ đào tiên tửu: Rượu nho đã được Ơn Trên ban bố điển lành và trở thành rượu tiên.