Thứ Sáu, 30 tháng 6, 2017

ĐĐVU 23 / GIÓ BỐN PHƯƠNG

Gió muốn thổi đâu thì thổi. GIOAN 3:8

* Hiền hữu Sử Kiến Nguyên (sukiennguyen...@gmail.com). Điện thư ngày 13-01-2017:
Câu thánh thi “Cùng nhau một đạo tức một Cha” có chỗ viết “Cùng nhau một đạo tức cùng Cha”. Đại Đạo Văn Uyển cho tôi hỏi câu nào chính xác?
Ban Ấn Tống: Theo luật thơ thất ngôn tứ tuyệt, luật Trắc vần Bằng, thì bài thơ gieo vần như sau:
O T O B O T B
O B O T O B B
O B O T O B T
O T O B O T B
Chữ O có thể là thanh Bằng (B) hay thanh Trắc (T). Quy tắc: Các chữ thứ nhất, ba, năm có thể B hay T đều được (nhất tam ngũ bất luận); nhưng các chữ còn lại phải theo đúng như kể trên (nhị tứ lục phân minh).
Về bài thơ của Đức Minh Nguyệt Tiên Ông ban cho các vị tiền khai Cao-Phạm ở Sài Gòn ngày Thứ Bảy 19-12-1925, mặc dù xưa nay câu hai có dị bản là một cha” (T B), nhưng có lẽ chúng ta nên căn cứ theo Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, quyển thứ Nhứt, bản in năm 1964 của Hội Thánh Cao Đài Tây Ninh (trang 8), viết là cùng Cha” (B B) cho đúng luật thơ:
Chẳng quản đồng tông mới một nhà
Cùng nhau một Ðạo tức cùng Cha
Nghĩa nhân đành gởi thân trăm tuổi
Dạy lẫn cho nhau đặng chữ hòa.
*
* Hiền hữu Trần Thanh Tạo (thanhtao...@gmail.com). Điện thư ngày 10-4-2017:
Đạo đệ là Trần Thanh Tạo, hiện đang là chức việc trong Ban Đại Diện Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài tại tỉnh Quảng Nam. Được Ban Đại Diện cho phép, đệ kính xin Ban Ấn Tống hộ trợ đạo sự như sau:
Ban Đại Diện Hội Thánh tại Quảng Nam có mở Quầy Kinh Sách Cao Đài tại địa chỉ 138 Phan Bội Châu, Tam Kỳ Quảng Nam (mặt tiền góc ngã tư Phan Bội Châu và Trưng Nữ Vương, trong khuôn viên thánh đường Quảng Nam). (Hình ảnh đính kèm.)
Quầy Kinh Sách này sẽ trưng bày, phát hành miễn phí kinh sách Cao Đài cho tất cả những người có nhu cầu nghiên cứu. Trong đó phần lớn là kinh sách do Chương Trình Chung Tay Ấn Tống xuất bản từ năm 2008 tới nay.
Hiện tại ở Tam Kỳ, một số đầu sách còn rất ít (vài cuốn) hoặc đã hết. Đệ kính nhờ Ban Ấn Tống cung cấp thêm các đầu sách Chương Trình Ấn Tống đang còn; trước mắt mỗi đầu sách cần khoảng mười cuốn, có danh sách gửi kèm theo thư này.
Đạo đệ xin chân thành cảm ơn Ban Ấn Tống. Kính thành cầu nguyện Thầy Mẹ cùng các Đấng thiêng liêng ban ân lành để quý huynh tỷ trong Ban Ấn Tống được mạnh khỏe, tiếp tục cống hiến lâu bền cho nền Đại Đạo.
Ban Ấn Tống: Chào hiền hữu Trần Thanh Tạo. Cảm ơn hiền hữu đã gởi cho xem các ảnh chụp về Quầy Kinh Sách Cao Đài do Ban Đại Diện Hội Thánh Truyền Giáo thành lập tại tại thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam. Chúng tôi vui mừng lắm, và rất cảm kích tấm lòng quý chức sắc, chức việc, bổn đạo ở Tam Kỳ, Quảng Nam đã đồng thuận hợp sức gầy dựng một góc văn hóa đọc khang trang, xinh xắn như thế.
Chúng tôi có thể gởi sách về Tam Kỳ nhiều hơn số lượng hiền hữu yêu cầu. Từ tháng 4 này trở đi, mỗi đầu sách mới in gởi về Tam Kỳ sẽ tăng thêm số lượng, trong đó có riêng phần dành biếu Quầy Kinh Sách.
Khi sách mới in, còn ở nhà in, thì đóng thùng gởi xe lửa ra Tam Kỳ như bấy lâu nay là việc đơn giản. Nhưng với số sách cũ, nghĩa là sách đã chở về chỗ chúng tôi, thì xin vui lòng cho chúng tôi thời gian lựa sách và đóng thùng, rồi sẽ gởi ra Tam Kỳ dần dần, bởi lẽ với gần 130 đầu sách các loại đã in, việc đóng thùng không thể làm ngay một lúc.
Trong quá trình phát triển Quầy Kinh Sách, hiền hữu chớ do dự mỗi khi cần nhận thêm sách theo nhu cầu bạn đọc. Chúc hiền hữu an lạc. Chúc việc đạo hanh thông.
*
* Tu sĩ Lê Hoàng Nguyên (nhà tu Trí Huệ, Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài, Tam Kỳ, Quảng Nam). Tin nhắn ngày 24-4-2017:
Chúng em rất cảm ơn Ban Ấn Tống đã quan tâm ủng hộ nhà tu Trí Huệ và giới thiệu chi tiết kèm với hình ảnh in trong Đại Đạo Văn Uyển tập Hanh (số 22). Cầu mong Ban Ấn Tống và Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo thành tựu trên con đường phụng sự Đạo Thầy. Chúng em kính chào Ban Ấn Tống.
Ban Ấn Tống: Mến chào Lê hiền hữu, chúng tôi ở phương Nam rất ngưỡng mộ các huynh đệ miền Trung đã dõng mãnh hy sinh cuộc sống riêng tư để hiến dâng trọn cả tuổi xuân phơi phới cho lý tưởng Đại Đạo. Khi biết được những khó khăn của quý anh em tu sinh, tu sĩ ròng rã suốt mười năm qua, chúng tôi càng thêm bội phần nể trọng.
Ngày nay, nhà tu Trí Huệ đang có duyên lành xây dựng thánh sở khang trang, lòng chúng tôi vui lây bao nhiêu thì lại thêm tự thẹn bấy nhiêu, vì xét ra chưa có sự trợ giúp vật chất cụ thể nào để góp phần làm vợi bớt gánh nặng lo toan của các huynh đệ đất Tam Kỳ trong quá trình kiến tạo nhà tu nam phái đầu tiên của Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài.
Trước mắt, trong khả năng rất nhỏ bé, chúng tôi chỉ có thể đem thông tin về nhà tu Trí Huệ trao gởi đông đảo bổn đạo gần xa, với tâm nguyện mời gọi được các bậc Mạnh Thường Quân hào sảng cảm thông và nhiệt thành đóng góp tài lực để nhà tu mau chóng hoàn thành kiến trúc.
Chúng tôi sung sướng nhận ra quý anh em tu sinh, tu sĩ nhà tu Trí Huệ là những tâm hồn văn chương và rất có khiếu thơ văn. Ước mong rằng từ trải nghiệm cuộc sống nhà tu (và sau này sẽ là một dòng tu mang thánh danh một vị tiền khai tông đồ của Hội Thánh Truyền Giáo), quý anh em sẽ dành thời gian viết bài cộng tác với Văn Uyển, giúp những trang in này thêm hương sắc mỹ miều, tao nhã. Đó cũng là một công quả, công trình góp phần gây dựng diện mạo văn học, văn hóa Cao Đài mai hậu. Xin trân trọng.
*
* Hiền hữu Vũ Ngọc Khang (vungockhang@xxx). Điện thư ngày 02-5-2017:
Anh em cháu mới dựng được cho bố mẹ một mái nhà ngói ba gian. Phần xà nhà (gồm các kết cấu gỗ) chúng cháu mua lại của một ngôi nhà cổ. Ngôi nhà này có ghi là nhập trạch năm 1925. Trên hai xà gỗ có ghi hai câu bằng chữ Nho: Phú Quý Thọ Khang Ninh; Càn Nguyên Hanh Lợi Trinh. Xin cho cháu hỏi hai câu này ý nghĩa là gì. Cháu xin cảm ơn.
Lê Anh Minh: Trong dân gian thường quan niệm về ngũ phúc 五福 (five blessings, five sources of happiness) là: phú (giàu), quý (sang), thọ (sống lâu), khang (mạnh khỏe), ninh (bình an). Cũng có thuyết giảng ngũ phúc là: thọ (sống lâu), phú (giàu), quý (sang), an lạc 安樂 (yên vui), tử tôn chúng đa 子孫眾多 (đông con cháu).
Ngũ phúc bắt nguồn từ thiên Hồng Phạm 洪範 của Thư Kinh 書經: Thọ (sống lâu), phú (giàu), khang ninh 康寧 (an mạnh), du hiếu đức 攸好德 (thích đạo đức), khảo chung mệnh 考終命 (chết an lành). Nguyên văn: Nhất viết thọ, nhị viết phú, tam viết khang ninh, tứ viết du hiếu đức, ngũ viết khảo chung mệnh. 一曰壽, 二曰富, 三曰康寧, 四曰攸好德, 五曰考終命. (Một là thọ, hai là phú, ba là khang ninh, bốn là du hiếu đức, năm là khảo chung mệnh.)
Ngũ phúc, dù cách giảng khác nhau, nhưng thường được dùng như lời ước nguyện: ngũ phúc lâm môn 五福臨門 (năm phúc vào cửa [nhà]). Người ta thường thể hiện lời ước nguyện ngũ phúc lâm môn qua một tấm hoành phi.
Người ta còn dùng hình ảnh biểu tượng là năm con dơi. Trong Hán ngữ, chữ phúc (hạnh phúc) và bức (con dơi) phát âm giống nhau là [fú] (đọc như “phủ” trong tiếng Việt). Tức là qua sự đồng âm, người ta lấy danh từ cụ thể (con dơi) để diễn đạt ý nghĩa trừu tượng (phúc).
Phú Quý Thọ Khang NinhCàn Nguyên Hanh Lợi Trinh không tạo thành câu đối, dù số chữ bằng nhau. Càn Nguyên Hanh Lợi Trinh 乾元亨利貞, lấy từ quẻ Càn trong Kinh Dịch. Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh là bốn đức tính của quẻ Càn, như lời giảng trong phần Văn Ngôn quẻ Càn:
“Nguyên là cái đứng đầu mọi điều thiện. Hanh là sự tập hợp mọi vẻ đẹp. Lợi là cái hòa theo điều nghĩa. Trinh là cốt cán của mọi việc. Quân tử thi hành điều nhân, đủ để đứng đầu mọi người; tập hợp mọi vẻ đẹp, đủ để hợp với lễ; làm lợi cho vạn vật, đủ để phụ họa theo điều nghĩa. Bền bỉ đủ để làm việc. Quân tử thực hành bốn đức này, nên gọi là nguyên, hanh, lợi, trinh.
Cụm từ “Nguyên Hanh Lợi Trinh” xuất hiện trong bảy quẻ: Kiền, Khôn, Truân, Lâm, Vô Vọng, Cách. Các nhà Dịch học hiểu bốn chữ này khác nhau. Trong Đại Đạo Văn Uyển tập Nguyên (số 5), năm 2013, tr. 83-95 tôi đã tuyển dịch phần giải thích và chứng minh khá dài của nhà Dịch học Cao Hanh (1900-1986). Bài này còn có thể xem tại: http://daidaovanuyen.blogspot.com/2016/02/vu-05-nguyen-hanh-loi-trinh-le-anh-minh.html.Tóm tắt ý nghĩa gốc của bốn chữ này theo lời giảng của Cao Hanh: “Nguyên là lớn; Hanh là dâng lễ vật cúng tế; Lợi là lợi ích; Trinh là bói.”
Tóm lại, “Phú Quý Thọ Khang Ninh” nghĩa là giàu, sang, sống lâu, khỏe mạnh, yên ổn. “Càn Nguyên Hanh Lợi Trinh” theo cách giảng trong Văn Ngôn quẻ Càn, thể hiện bốn đức tính của người quân tử. Bất cứ ai học tập được bốn đức tính này thì người đó hy vọng có thể hưởng “Phú Quý Thọ Khang Ninh”.
*
* Đạo hữu Lý Thị Tư. Điện thư ngày 12-5-2017:
Cháu là thành viên ban nghi lễ tại họ đạo, thường tham gia cúng trong các đám tang. Cháu nhận thấy (chẳng biết có sai lầm hay không) là có nhiều đám làm hỏa táng, đưa quan tài đi thiêu, thế nhưng lúc đọc kinh lại luôn đọc bài kinh hạ huyệt dành cho trường hợp chôn cất (thổ táng). Ơn Trên ngày xưa có ban truyền bài kinh nào dùng cho trường hợp hỏa táng không? Kính nhờ Văn Uyển chỉ cho cháu biết. Cháu chân thành cảm ơn Ban Ấn Tống.
Huệ Khải: Chào đạo hữu. Ngày xưa đất rộng người thưa, thổ táng rất phổ biến. Trái lại, ngày nay nhiều gia đình thường chọn lựa hỏa táng. Đúng như đạo hữu nói, trong lễ bổn của nhiều Hội Thánh Cao Đài, hầu như thiếu bài kinh dành cho trường hợp hỏa táng. Tình cờ chúng tôi có được bài Kinh Hỏa Táng, do Hỏa Đức Tinh Quân ban cho. Không biết ban sơ bài kinh này do bộ phận thông công nào tiếp điển, tại đâu, ngày nào. Chỉ biết là bài Kinh Hỏa Táng này có trong một tập gồm nhiều kinh tụng của thánh thất Liên Hoa Cửu Cung (ở phường Linh Xuân, quận Thủ Đức, TpHCM).
KINH HỎA TÁNG
(Giọng Nam Ai)
Thôi kiếp sống giờ đây đứt đoạn
Mảnh hình hài ngoan ngoãn nằm yên
Tinh nhanh, linh hoạt không phiền
Hồn về Cực Lạc, xác liền bỏ xa
Nhớ lúc sống thật thà hiếu đạo
Nay thác rồi bước dạo thung dung
Ma ha thánh thủy tiếp cùng
Tiễn đưa xác tục về vùng thiêng liêng
Xin định tâm như thiền tinh tấn
Phách biến hình như tánh vượt tu
Lưu truyền tôn tử nghìn thu
Con đường đạo đức giải thù từ đây
Đừng than khóc, đừng ngây thương nhớ
Đặng vượt lên khỏi trở lại trần
Vướng chân vì mối tình thân
Gắng cho thoát xác đôi phân vắng hình
Châm ngọn lửa thâm tình dâng trọn
Nguyện hương hồn lánh chốn Phong Đô
Nương mây thoát kiếp mơ hồ
Tìm về Tiên cảnh điểm tô linh hồn
Hỡi hồn phách tinh khôn thăng tiến
Hội giác linh diện kiến bên Thầy
Xác phàm thối rữa không may
Nay nhờ ngọn lửa tan ngay mảnh hình
Trong phút chốc xác thành tro bụi
Theo liên thần hồn tựa lần lên
Âm dương cách trở đôi bên
Tiễn người thác trước không nên lụy sầu.
(Tụng kinh này xong rồi tụng tiếp Vãng Sanh Thần Chú.)

*