Thứ Sáu, 30 tháng 6, 2017

ĐĐVU 23 / NGUYỄN THANH LỢI

TỤC THỜ BÀ CẬU NAM BỘ


1. Bức hoành ở chính điện ghi “Hà Dương Thủy Thần” bị cây lọng che khuất một nửa. (Ảnh trên: Lê Công Lý)
2. Dinh bà Thủy Long Thánh Mẫu ở thị trấn Dương Đông, Phú Quốc. (Ảnh dưới: Nguyễn Thanh Lợi)
*
Ngư dân Việt ở Nam Bộ rất tin tưởng tín ngưỡng Bà Cậu, họ gọi nghề hạ bạc ([1]) là nghề Bà-Cậu. Không chỉ ngư dân tôn thờ Bà Cậu như tổ sư của nghề đánh cá trên biển, mà ngay cả những người làm dịch vụ nghề trên bờ cũng tự nhận mình làm nghề Bà Cậu, để tìm một chỗ dựa tinh thần trong cuộc mưu sinh. Khi ghe thuyền xuất bến, thuyền trưởng hoặc chủ ghe đều cúng vái Bà Cậu, cầu mong đi biển “mái dầm tốt bến”, “đánh không thua ai”. Họ cũng thắp nhang hằng ngày trên ghe để cầu Bà Cậu cho ghe đánh bắt được nhiều tôm cá hoặc những khi biển nổi sóng gió. Nhưng ngư dân phần nhiều rất ít hiểu biết về gốc gác tín ngưỡng này.
Cư dân vùng sông nước Nam Bộ đều có thờ Bà Cậu, tuy thần tích không rõ ràng. Đối với người dân, có hai loại thủy thần: tốt, thân thiện là Bà Cậu, và gây tai họa là Hà Bá. Mỗi khi cúng vái Bà Cậu, họ thỉnh khấn nhiều đối tượng một cách chung chung chứ không riêng gì Bà Cậu. Dưới đây là lời khấn vái của một lão ngư ở vùng Tây sông Hậu:
Nam mô… Đất nước Ông Bà, Ông Tà,([2]) Bà Vua, Lịnh Bà, Hai Cậu, Bà Cậu, Tiên Sư, Tam Giáo Đạo Sư, Tiền Hiền, Tiền Vãng, Hậu Vãng,([3]) các đảng ([4]) âm nhơn, đất đai viên trạch ([5])về đây ăn uống, phù hộ cho chúng tôi làm ăn cho khá, chừng nữa [khi việc đã thành] có gì cúng nấy. Nam mô…
Các món cúng thường có trái dừa tươi, gạo, muối, bánh trái, rượu, cờ ngũ sắc đuôi nheo. Người sau bắt chước người trước cúng, chứ ít biết tại sao phải làm vậy. Sau một vụ thu hoạch tôm cá hoặc kết thúc một chuyến buôn cá, người dân cúng Bà Cậu một cái đầu heo, gà, chuối.
Tùy theo mức độ giàu nghèo, phương tiện to nhỏ mà bàn thờ Bà được sắp đặt trang trí lớn, bé khác nhau, nhưng sự thành tâm của người đi trên ghe tàu đối với Bà thì như nhau. Vị trí đặt bàn, kệ thờ Bà luôn ở chỗ trang trọng của khoang sinh hoạt. Trên bàn thờ luôn có hương, hoa, trái cây thờ cúng, trước mỗi chuyến khởi hành họ đều thắp nhang vái Bà, ngày 16 hằng tháng, đặc biệt tháng Giêng, tháng Tư, tháng Bảy âm lịch họ đều cúng Bà long trọng với những cặp vịt béo và nghi ngút khói nhang.
Ngày tết của những người làm nghề kinh doanh vận tải trên sông nước không thể không có một bàn thờ Bà trên ghe tàu với mâm ngũ quả, bình hoa, cặp bánh tét và nhang đèn (đôi khi là đèn điện màu nhấp nháy). Vào ngày mùng ba, mùng bốn hoặc mùng năm tết thường có một ngày họ dùng cặp vịt cúng Bà. Món vịt chế biến là luộc nấu cháo.
Ở miếu Bà Thủy (xã An Thủy, huyện Ba Tri, Bến Tre), mỗi khi ra khơi đánh bắt, đóng ghe mới hoặc sửa chữa ghe cũ, ngư dân thường cúng tạ Bà Cậu, lễ vật bắt buộc phải có cặp vịt theo quan niệm Ông cúng gà, Bà cúng vịt. Khi biển có bão tố, mất mùa, có người bỏ mình, họ thường vái Tiên Sư Bà Cậu để xin độ trì.
Miếu Cậu (Hà Dương thủy phủ thần miếu) do tri phủ Hồ Trọng Đính lập năm 1857 tại xã Hòa Khánh (huyện Cái Bè, Tiền Giang), quê nội của tổng trấn Lê Văn Duyệt. Tín ngưỡng này do những cư dân có gốc từ Quảng Ngãi mang vào. Miếu thờ bà Thủy Long và cậu Tài, cậu Quý, ngày vía 23 tháng 2 trùng với ngày vía Thiên Hậu, do nằm ở vị trí quan trọng trên con đường thủy mua bán lúa gạo năm xưa của những thương nhân gốc Hoa. Ở đây có bài văn tế bà Thủy Long. Đây là miếu thờ nổi tiếng, gọi là miếu Phong Ba, tương truyền có cặp ngỗng thần giữ cung điện hay nổi lên làm sóng gió.
 Trên ghe tàu của dân sông nước chỉ có bàn thờ một vị thần gọi là Bà Cậu, bài vị chữ Hán ghi là “Thủy Long Thánh Mẫu” hay “Thánh Mẫu Nương Nương”. Nhưng ở trên bờ có phân biệt Bà và Cậu, có miễu Bà, dinh Cậu hay miễu Cậu. Ở Phú Quốc có một dinh Cậu và một miễu Bà. Miễu Bà ở Phú Quốc thờ Thủy Long Thánh Mẫu, một cơ sở tín ngưỡng quan trọng nằm bên cửa sông Dương Đông. Trước khi ra khơi đánh bắt hay khi đánh bắt trúng trở về, khi hạ thủy tàu ghe... đều cúng Bà Cậu. Dinh Bà Thủy Long và dinh Cậu nghi thức cúng tế giống cúng đình, mang tính chất cầu an.
 Trong dân gian, có nhiều cách hiểu khác nhau về Bà Cậu, cho rằng từ Bà Cậu có ý nghĩa là bà Thủy Long, con gái Thủy Tề. Từ “Cậu” là nam thần, có tên là Hà Bá hoặc “Cậu” là cậu Tài, cậu Quý, con bà Thủy Long.
Hoặc ý kiến khác cho rằng Bà Cậu chính là Bà Thủy và hai người con trai: Cậu Tài và Cậu Quý. Nơi ở của Bà Thủy dưới sông nước, biển cả gọi là Lục Cung Thủy Triều. Mặt khác, người ta còn có quan niệm Bà Thủy chính là hóa thân của Thiên Y Ana.
Bà Po Nagar có hai người con là cậu Trày (Tài) và cậu Quý (nhị vị công tử), nhưng khi vào tín ngưỡng Việt Nam thì nhị vị công tử có khi trở thành nhị vị công nương. Cậu Trày đọc trại thành cậu Chài, được dân vạn (đánh cá) thờ làm thần bảo hộ. Hai vị công tử này thường được vẽ là hai thiếu niên ôm gà đá. Do tín ngưỡng nữ thần Thiên Y Ana rất mạnh nên các nữ thần có nguồn gốc từ Thiên Y Ana có hai con như Bà Chúa Xứ, Chúa Tiên, Chúa Ngọc, Thủy Long Công Chúa mà các nữ thần khác như Năm Bà Ngũ Hành, Linh Sơn Thánh Mẫu, kể cả nữ thần gốc Hoa như Thiên Hậu Thánh Mẫu, Thất Thánh Nương Nương cũng có hai con như vị nữ thần Chăm. Đây là yếu tố góp phần tạo nên sự nhập nhằng trong tục thờ các nữ thần ở Nam Bộ, nhất là các thần liên quan đến sông nước.
Bà chính là Thiên Y Ana Thánh Mẫu, còn Cậu là nhị vị công tử con trai của Bà: Cậu Tài, Cậu Quý. Ở đây ta cũng bắt gặp truyền thuyết về Thiên Y Ana với những dị bản của nó. Tuy nhiên, tín ngưỡng Bà-Cậu cũng có sự pha trộn với tục thờ Thủy Long Thần Nữ hoặc biến thành dạng thức thờ Bà Chúa Xứ, Bà Chúa Hòn trên các đảo. Đặc biệt, truyền thuyết bà Phi Yến ở Côn Đảo là sự hóa thân của Thiên Y Ana và được thể hiện qua tín ngưỡng thờ Bà Cậu trên hòn đảo lịch sử gắn với những truyền thuyết về Nguyễn Ánh trong những ngày bôn tẩu. Tín ngưỡng này đặc biệt phổ biến ở vùng duyên hải và các đảo ngoài khơi mà xu hướng chính là sự kết hợp với các dạng thức tín ngưỡng liên quan đến sông nước và biển.
NGUYỄN THANH LỢI


Văn Uyển chú thích:
([1]) nghề hạ bạc: Nghề đánh cá.
([2]) ông Tà: Theo tín ngưỡng người Khmer là thần Neak Ta cai quản một sóc (srok, xóm) hoặc một khu vực rộng lớn hơn. Thần cũng được người Việt thờ ở Nam Kỳ.
([3]) Tiền Vãng, Hậu Vãng: Những vị đã chết trước, những vị đã chết sau.
([4]) đảng: Lẽ ra là đẳng , nhưng dân gian quen nói trại là đảng. các đảng: Các loại, các hạng.
([5]) viên trạch 園宅: vườn tược và nhà ở.