Thứ Bảy, 14 tháng 9, 2024

Nhà văn HỒ BIỂU CHÁNH đắc quả Thánh

 


Nhà văn HỒ BIỂU CHÁNH

đắc quả Thánh có giáng cơ

HUỆ KHẢI

Minh Đức Nho Giáo hình thành qua cơ bút, khởi đầu từ năm 1932 tại Ba Động, làng Trường Long Hòa, quận Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh.

Người có công gầy dựng buổi ban sơ là ông Ngô Nghiêm Sanh, thánh danh Chơn Minh Sanh, tạ thế năm 1980, đắc quả vị Thiên Minh Quang Bồ Tát. Cùng góp công đức gầy dựng là ông Ngô Minh Bè (bào huynh ông Sanh) đắc quả vị Huỳnh Quang Bồ Tát.

Do lịnh Ơn Trên qua cơ bút, Minh Đức Nho Giáo cất Khổng Thánh Miếu ở Trà Vinh, mở hai đàn Chí Thiện (Trà Vinh) và Tân Dân (Nha Rộn, Bạc Liêu; sau dời về Sài Gòn) để Ơn Trên dạy đạo qua cơ bút.

Trước năm 1975, bộ phận thông công Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam (nay gọi là Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo, số 171B Cống Quỳnh, quận 1, TpHCM) vâng lịnh Ơn Trên có về Trà Vinh lập đàn cơ tại Khổng Thánh Miếu của Minh Đức Nho Giáo.

Qua cơ bút tại Minh Đức Nho Giáo, nhà văn Hồ Biểu Chánh (Hồ Văn Trung, 1884-1958) đã nhiều lần giáng đàn.

Sinh thời, ông làm công chức hành chánh, thăng lên đến ngạch đốc phủ sứ (1936), được bổ làm chủ quận (quận trưởng) nhiều nơi, có tiếng là thanh liêm, mẫn cán, yêu dân, thương người nghèo khổ.

Ông viết rất khỏe, gồm nhiều thể loại: 64 tiểu thuyết; 12 tập truyện ngắn và truyện kể; 2 truyện dịch; 12 vở kịch và tuồng hát; 5 tập thơ và truyện thơ; 8 tập ký; 28 tập khảo cứu, phê bình; nhiều bài diễn văn.

Tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh nôm na, bình dị. Ông mượn tiểu thuyết nhằm đề cao phẩm hạnh phụ nữ và các giá trị luân lý truyền thống theo đạo đức Nho Giáo.

Hồ Biểu Chánh đích thực là cây bút dùng văn chương chở chuyên đạo lý (văn dĩ tải đạo) với chủ đích góp phần xây dựng xã hội Nam Kỳ thời thuộc Pháp đang bị băng hoại nhiều giá trị về nhân luân phẩm tiết.

Hồ Biểu Chánh đắc quả Thánh

Tam Nguơn Giác Thế Kinh (Cần Thơ: nhà in Phương Nam, 1953), trang 36, có một thánh giáo ngày 02-11 Tân Mùi (10-12-1931) do Đức Thần Oai Viễn Trấn Quan Thánh Đế Quân giáng cơ dạy:

“Phàm người tu hành mà đặt đặng một bộ kinh sám khuyên chúng làm lành thì người ấy đặng thành Tiên. Còn người văn chương quân tử mà làm đặng một pho sách dạy chúng luân thường đạo lý thì người đặng thành Thánh.”

Lời dạy này được minh chứng qua trường hợp nhà văn Hồ Biểu Chánh.

Thật vậy, Hồ Biểu Chánh suốt cuộc đời không phải là thầy tu, nhưng lại trọn vẹn làm người hiền đức, thanh liêm, cần cù. Nhà văn hăng say, miệt mài mượn sách vở, chữ nghĩa để củng cố luân thường đạo lý xã hội giữa thời nước mất nhà tan, phong hóa suy đồi. Sáu mươi bốn quyển tiểu thuyết của ông là “con thuyền” chở chuyên đạo lý Khổng Mạnh. Ngoài ra, ông còn viết không ít khảo luận, diễn văn về tôn giáo như:

- Giáo Lý Của Đạo Phật (diễn văn, Gò Công 1948).

- Mạnh Tử Với Chủ Nghĩa Dân Chủ (diễn văn, 1945).

- Nho Giáo Và Chánh Trị (diễn văn, 1946).

- Nho Giáo (diễn văn, Gò Công 1948).

- Nho Giáo Tinh Thần (khảo cứu, 1951).

- Nho Học Danh Thơ (khảo cứu, Gò Công 1948).

- Phật Giáo Cảm Hóa Trung Hoa (khảo cứu, 1950).

- Phật Giáo Vào Việt Nam (khảo cứu, 1951).

- Phật Tử Tu Tri (khảo cứu, Gò Công 1948).

- Thiền Môn Chư Phật (khảo cứu, Gò Công 1949).

Theo giáo lý Cao Đài, ông đã làm tròn bổn phận về phần Nhơn Đạo. Nhờ công đức to tát ấy ông đã được Đức Thượng Đế ban phong phẩm Thánh, và Thiên Đình cho phép ngài Hồ Biểu Chánh trở lại trần gian, mượn cơ bút Minh Đức Nho Giáo (Khổng Thánh Miếu) để dạy đạo.

1/ Ngày 08-01 Quý Dậu [28-02-1993], nhân dịp làm lễ an vị đàn Tân Dân (mới dời về đường Đông Hồ, phường 8, quận Tân Bình, Tp.HCM), ngài giáng cơ cho bài thơ xưng danh như sau:

HỒ nước trong ta mà cố lược

VĂN TRUNG đây mực thước nào xê

Chánh tâm rồi được quy về

An lòng tự tại nhàn quê mỉm cười.

Đây là lối thơ quán thủ, lấy ba chữ đầu câu thơ ghép thành tên khai sanh của ngài thuở còn tại thế gian là Hồ Văn Trung.

2/ Ngày 13-3 nhuần năm Quý Dậu [04-5-1993], tại Chí Thiện Đàn, ba Đấng thiêng liêng cùng giáng đàn, xưng danh qua bài thơ tứ tuyệt vừa quán thủ (Lê Văn Duyệt), quán tâm (Phan Thanh Giản), và quán yêu (Hồ Văn Trung). Liền sau đó ba vị ban cho hai vé thơ song thất lục bát khuyến tu.

ngọt PHAN an HỒ nước đầy

VĂN nhơn THANH dạ VĂN hòa xây

DUYỆT lòng GIẢN(g) TRUNG còn trực

Tạo đức phước lành đệ tử gây.

3/ Ngày 24-12 Quý Dậu [04-02-1994] tại Tân Dân Đàn, ba Đấng thiêng liêng (Lê Văn Duyệt, Phan Thanh Giản, Hồ Văn Trung) lại cùng giáng cơ lần nữa, xưng danh qua bài thơ như sau.

thanh PHAN ánh nước HỒ trong

VĂN THANH thanh VĂN toại lòng

DUYỆT lại GIẢN(g) bài TRUNG liệt sĩ

Chào mừng thọ ký chánh dày công.

4/ Ngày 03 Giêng Ất Hợi [02-02-1995], ngài Hồ Biểu Chánh giáng cơ tại Tân Dân Đàn:

Đạo công bồi HỒ trong nước biếc

VĂN TRUNG thành nhiều việc phải làm

Chánh tâm tứ đức không tham

Lợi danh chẳng mến cố làm hiền nhân.

Nhớ khi xưa ở trần nhẫn nhục

Đặt văn chương un đúc khách tài

Thành công mới được hôm nay

Văn nhân mặc khách làm hoài không ngưng.

5/ Ngày 07-12 Nhâm Thân [30-12-1992], tại Chí Thiện Đàn, ngài Hồ Biểu Chánh giáng cơ dạy:

HỒ nước trong vẹn bề cố lược

VĂN trau giồi mới được thành nhân

TRUNG kiên BIỂU CHÁNH chuyên cần

Cũng như đại hội Phong Thần Thầy cho.

Về nơi đây trường Nho tái thiết

Học Thánh Nhân còn biết nhiều bài

Mong rằng nhu sĩ thới lai

Tuyển thi quân tử anh tài dày công.

Đức Chí Tôn xét duyệt sách của Hồ Biểu Chánh

và phong ngài làm Thánh

Ngày 07-12 Nhâm Thân [30-12-1992], tại Chí Thiện Đàn, ngài Hồ Biểu Chánh giáng cơ dạy:

HỒ VĂN TRUNG tự BIỂU CHÁNH. Tôi chào mừng.

Để quy nguyên đại đồng Vân Hội

Đức mãi trau, đức trội lòa lòa

Nhìn xem hiền sĩ nghìn hoa

Vun phân tưới nước để hoa đủ màu.

Lòng nhân ái thanh cao từ huệ

Mượn trường Tiên sớm kệ chiều kinh

Hòa chung trở lại Thiên Đình

Hòa chung khách tục vẹn gìn sử bia.

Nầy các hiền sĩ, tôi là HỒ VĂN TRUNG tự là BIỂU CHÁNH, hôm nay được Đức Ngọc Đế và Tam Giáo Tòa cho về đây là:

Nhờ công khó đặt nhiều bài tốt

Để lại đời người dốt còn xem

Minh tâm Ngọc Đế vén rèm

Lựa thi tuyển chọn còn đem trở về.

Mỗi bài ra châu phê trước án

Để lại đời bậu bạn hiền nhu

Khi xưa tôi cũng biết tu

Tròn xong Nhơn Đạo hiền nhu Thầy chờ.

Lật trang sách để nhờ kiểm duyệt

Đức Ngọc Hoàng chẳng tiếc phê cho

Sử kinh bổn phận làm trò

Còn tôi đoạt bảng như hò cống xê.

Tuy nói rằng đường dê sẵn vạch

Phận làm người phân tách Trời ban

Trời thương nên mở khoa tràng

Sĩ nhu quân tử leo thang khứ hồi.

Người chánh trực nào bôi tên tuổi

Tuy sự đời có rủi có may

Sao bằng tu với Cao Đài

Sao bằng Tiên Phật mỗi ngày chấm phê.

Bởi vì tôi là đại nguyên nhân lâm phàm nên biết đặt sách ra cho thế nhân xem học hỏi. Tôi làm xong phận sự ở quan trường, tôi thương dân chúng, đặt sách răn đời.

Hôm nay bỏ xác rồi, tôi được Đức Ngọc Đế chấm phê là trung hậu, nhân đức. Sách tôi để lại dù không văn hoa lý sự như bây giờ, nhưng ẩn tàng đạo đức kinh luân. Nên khai [Hội] Long Vân nầy mới được Ngọc Đế chấm phê vào hàng Thánh, được ngang với các vị Thánh trung quân ái quốc. Gần đây các vị lão thành thì biết mặt, còn các em nghe danh vậy.

Hôm nay tôi về đây cho biết rằng tu chơn tạo đức thì bao giờ cũng thành đạo được. Như tôi vào quan trường mà hiền lương đạo đức, đặt sách để dạy đời mà còn được vào hàng Thánh; huống chi quý em đây thay mạng Trời [thực thi] Nho Tông chuyển thế, tế độ quần sanh mà không bằng tôi sao?

Có vị tu kỳ nầy không biết có được về [trời] hay không? Tôi xin tạm trả lời: Hễ có công làm ruộng thì có lúa gạo ăn, trồng cây gì thì ăn cây nấy. Các vị vào trường Tiên khai hóa chúng sanh để thay Trời làm việc nghĩa [thì sẽ được về trời].

Hôm nay chúng tôi được phép Đức Ngọc Đế và Tam Giáo Tòa về viếng thăm quý hữu, thấy trường Tiên nầy:

Siêu quang tọa vị   

Quý hiền thi Vân Hội

Mẹ Thầy dẫn lối     

Thánh Phật đưa đường

Tiên Thánh còn thương

Thần đường soi ngõ

Cố mà chịu khó                 

Để có lập công

Xong Hội Hoa Long         

Tròn xong phận sự

Trời thương ân tứ

Để lại tử tôn

Thân xác lấp chôn  

Thần hồn xán lạn.

Vậy tôi có đôi lời viếng thăm quý hữu. (…) Vậy thì:

Cám ơn quý hữu thiện thành

Chí tâm đàn nội Nho sanh chực chờ

Phật Tiên ra những dòng thơ

Thầy thương ân thưởng, Mẹ chờ rước đi

Phải trang chí sĩ tu mi

Phải người liệt nữ kiên trì sắt son.

Xin kiếu.

HUỆ KHẢI

 (Trích HỒ BIỂU CHÁNH XƯA VÀ NAY. Hà Nội: Nxb Tôn Giáo, 2014.)