Nhà văn HỒ BIỂU CHÁNH
đắc quả Thánh có giáng cơ
HUỆ KHẢI
Minh Đức Nho Giáo hình thành
qua cơ bút, khởi đầu từ năm 1932 tại Ba Động, làng Trường Long Hòa, quận Cầu
Ngang, tỉnh Trà Vinh.
Người có công gầy dựng
buổi ban sơ là ông Ngô Nghiêm Sanh, thánh danh Chơn Minh Sanh, tạ thế năm 1980,
đắc quả vị Thiên Minh Quang Bồ Tát. Cùng góp công đức gầy dựng là ông Ngô Minh
Bè (bào huynh ông Sanh) đắc quả vị Huỳnh Quang Bồ Tát.
Do lịnh Ơn Trên qua cơ
bút, Minh Đức Nho Giáo cất Khổng Thánh Miếu ở Trà Vinh, mở hai đàn Chí Thiện
(Trà Vinh) và Tân Dân (Nha Rộn, Bạc Liêu; sau dời về Sài Gòn) để Ơn Trên dạy
đạo qua cơ bút.
Trước năm 1975, bộ phận
thông công Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt
Qua cơ bút tại Minh Đức
Nho Giáo, nhà văn Hồ Biểu Chánh (Hồ Văn
Trung, 1884-1958)
đã nhiều lần giáng đàn.
Sinh thời, ông làm công chức hành chánh, thăng lên đến
ngạch đốc phủ sứ (1936), được bổ làm chủ quận (quận trưởng) nhiều nơi, có tiếng
là thanh liêm, mẫn cán, yêu dân, thương người nghèo khổ.
Ông viết rất khỏe, gồm nhiều thể loại: 64 tiểu thuyết; 12
tập truyện ngắn và truyện kể; 2 truyện dịch; 12 vở kịch và tuồng hát; 5 tập thơ
và truyện thơ; 8 tập ký; 28 tập khảo cứu, phê bình; nhiều bài diễn văn.
Tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh nôm na, bình dị. Ông mượn tiểu
thuyết nhằm đề cao phẩm hạnh phụ nữ và các giá trị luân lý truyền thống theo
đạo đức Nho Giáo.
Hồ Biểu Chánh đích thực là cây bút dùng văn chương chở
chuyên đạo lý (văn dĩ tải đạo) với
chủ đích góp phần xây dựng xã hội Nam Kỳ thời thuộc Pháp đang bị băng hoại
nhiều giá trị về nhân luân phẩm tiết.
Hồ Biểu Chánh đắc quả Thánh
Tam Nguơn
Giác Thế Kinh
(Cần Thơ: nhà in Phương Nam, 1953), trang 36, có một thánh giáo ngày 02-11 Tân
Mùi (10-12-1931) do Đức Thần Oai Viễn Trấn Quan Thánh Đế Quân giáng cơ dạy:
“Phàm người tu hành mà đặt đặng
một bộ kinh sám khuyên chúng làm lành thì người ấy đặng thành Tiên. Còn người văn chương quân tử mà
làm đặng một pho sách dạy chúng luân thường đạo lý thì người đặng thành Thánh.”
Lời dạy này được minh chứng qua trường hợp nhà văn Hồ
Biểu Chánh.
Thật vậy, Hồ Biểu Chánh suốt cuộc đời không phải là thầy
tu, nhưng lại trọn vẹn làm người hiền đức, thanh liêm, cần cù. Nhà văn hăng
say, miệt mài mượn sách vở, chữ nghĩa để củng cố luân thường đạo lý xã hội giữa
thời nước mất nhà tan, phong hóa suy đồi. Sáu mươi bốn quyển tiểu thuyết của
ông là “con thuyền” chở chuyên đạo lý Khổng Mạnh. Ngoài ra, ông còn viết không
ít khảo luận, diễn văn về tôn giáo như:
- Giáo Lý Của Đạo Phật (diễn văn, Gò Công 1948).
- Mạnh Tử Với Chủ Nghĩa Dân Chủ (diễn văn, 1945).
- Nho Giáo Và Chánh Trị (diễn văn, 1946).
- Nho Giáo (diễn văn, Gò Công 1948).
- Nho Giáo Tinh Thần (khảo cứu, 1951).
- Nho Học Danh Thơ (khảo cứu, Gò Công 1948).
- Phật Giáo Cảm Hóa Trung Hoa (khảo cứu, 1950).
- Phật Giáo Vào Việt Nam (khảo cứu, 1951).
- Phật Tử Tu Tri (khảo cứu, Gò Công 1948).
- Thiền Môn Chư Phật (khảo cứu, Gò Công 1949).
Theo giáo lý Cao Đài, ông đã làm tròn bổn phận về phần
Nhơn Đạo. Nhờ công đức to tát ấy ông đã được Đức Thượng Đế ban phong phẩm
Thánh, và Thiên Đình cho phép ngài Hồ Biểu Chánh trở lại trần gian, mượn cơ bút
Minh Đức Nho Giáo (Khổng Thánh Miếu) để dạy đạo.
1/ Ngày 08-01 Quý Dậu [28-02-1993], nhân
dịp làm lễ an vị đàn Tân Dân (mới dời về đường Đông Hồ, phường 8, quận Tân
Bình, Tp.HCM), ngài giáng cơ cho bài thơ xưng danh như sau:
HỒ nước trong ta mà cố lược
VĂN TRUNG đây mực thước nào xê
Chánh tâm rồi được quy về
An lòng tự tại nhàn quê
mỉm cười.
Đây là lối thơ quán thủ, lấy ba chữ đầu câu thơ ghép
thành tên khai sanh của ngài thuở còn tại thế gian là Hồ Văn Trung.
2/ Ngày 13-3 nhuần năm Quý Dậu [04-5-1993],
tại Chí Thiện Đàn, ba Đấng thiêng liêng cùng giáng đàn, xưng danh qua bài thơ
tứ tuyệt vừa quán thủ (Lê Văn Duyệt),
quán tâm (Phan Thanh Giản), và quán
yêu (Hồ Văn Trung). Liền sau đó ba vị
ban cho hai vé thơ song thất lục bát khuyến tu.
LÊ ngọt PHAN an HỒ nước đầy
VĂN nhơn THANH dạ VĂN hòa xây
DUYỆT lòng GIẢN(g) lý TRUNG còn trực
Tạo đức phước lành đệ tử
gây.
3/ Ngày 24-12 Quý Dậu [04-02-1994] tại
Tân Dân Đàn, ba Đấng thiêng liêng (Lê Văn
Duyệt, Phan Thanh Giản, Hồ Văn Trung) lại cùng giáng cơ lần nữa, xưng danh
qua bài thơ như sau.
LÊ thanh PHAN ánh nước HỒ trong
VĂN sĩ THANH thanh VĂN toại lòng
DUYỆT lại GIẢN(g) bài TRUNG liệt sĩ
Chào mừng thọ ký chánh dày
công.
4/ Ngày 03 Giêng Ất Hợi [02-02-1995],
ngài Hồ Biểu Chánh giáng cơ tại Tân Dân Đàn:
Đạo công bồi HỒ trong nước biếc
VĂN TRUNG thành nhiều việc phải làm
Chánh tâm tứ đức không
tham
Lợi danh chẳng mến cố làm
hiền nhân.
Nhớ khi xưa ở trần nhẫn
nhục
Đặt văn chương un đúc
khách tài
Thành công mới được hôm
nay
Văn nhân mặc khách làm
hoài không ngưng.
5/ Ngày 07-12 Nhâm Thân [30-12-1992],
tại Chí Thiện Đàn, ngài Hồ Biểu Chánh giáng cơ dạy:
HỒ nước trong vẹn bề cố lược
VĂN trau giồi mới được thành
nhân
TRUNG kiên BIỂU CHÁNH chuyên
cần
Cũng như đại hội Phong
Thần Thầy cho.
Về nơi đây trường Nho tái
thiết
Học Thánh Nhân còn biết
nhiều bài
Mong rằng nhu sĩ thới lai
Tuyển thi quân tử anh tài
dày công.
Đức Chí Tôn xét duyệt sách của Hồ Biểu Chánh
và phong ngài làm Thánh
Ngày 07-12 Nhâm Thân [30-12-1992], tại Chí
Thiện Đàn, ngài Hồ Biểu Chánh giáng cơ dạy:
HỒ VĂN TRUNG tự BIỂU CHÁNH. Tôi chào
mừng.
Để quy nguyên đại đồng Vân
Hội
Đức mãi trau, đức trội lòa
lòa
Nhìn xem hiền sĩ nghìn hoa
Vun phân tưới nước để hoa
đủ màu.
Lòng nhân ái thanh cao từ
huệ
Mượn trường Tiên sớm kệ
chiều kinh
Hòa chung trở lại Thiên
Đình
Hòa chung khách tục vẹn
gìn sử bia.
Nầy các hiền sĩ, tôi là HỒ VĂN TRUNG tự là BIỂU CHÁNH, hôm
nay được Đức Ngọc Đế và Tam Giáo Tòa cho về đây là:
Nhờ công khó đặt nhiều bài
tốt
Để lại đời người dốt còn
xem
Minh tâm Ngọc Đế vén rèm
Lựa thi tuyển chọn còn đem
trở về.
Mỗi bài ra châu phê trước
án
Để lại đời bậu bạn hiền
nhu
Khi xưa tôi cũng biết tu
Tròn xong Nhơn Đạo hiền
nhu Thầy chờ.
Lật trang sách để nhờ kiểm
duyệt
Đức Ngọc Hoàng chẳng tiếc phê
cho
Sử kinh bổn phận làm trò
Còn tôi đoạt bảng như hò
cống xê.
Tuy nói rằng đường dê sẵn
vạch
Phận làm người phân tách
Trời ban
Trời thương nên mở khoa
tràng
Sĩ nhu quân tử leo thang
khứ hồi.
Người chánh trực nào bôi
tên tuổi
Tuy sự đời có rủi có may
Sao bằng tu với Cao Đài
Sao bằng Tiên Phật mỗi
ngày chấm phê.
Bởi vì tôi là đại nguyên
nhân lâm phàm nên biết đặt sách ra cho thế nhân xem học hỏi. Tôi làm xong phận
sự ở quan trường, tôi thương dân chúng, đặt sách răn đời.
Hôm nay bỏ xác rồi, tôi
được Đức Ngọc Đế chấm phê là trung hậu, nhân đức. Sách tôi để lại dù không văn
hoa lý sự như bây giờ, nhưng ẩn tàng đạo đức kinh luân. Nên khai [Hội] Long Vân
nầy mới được Ngọc Đế chấm phê vào hàng Thánh, được ngang với các vị Thánh trung
quân ái quốc. Gần đây các vị lão thành thì biết mặt, còn các em nghe danh vậy.
Hôm nay tôi về đây cho
biết rằng tu chơn tạo đức thì bao giờ cũng thành đạo được. Như tôi vào quan
trường mà hiền lương đạo đức, đặt sách để dạy đời mà còn được vào hàng Thánh; huống chi quý em đây thay mạng Trời [thực thi] Nho Tông
chuyển thế, tế độ quần sanh mà không bằng tôi sao?
Có vị tu kỳ nầy không biết
có được về [trời] hay không? Tôi xin tạm trả lời: Hễ có công làm ruộng thì có
lúa gạo ăn, trồng cây gì thì ăn cây nấy. Các vị vào trường Tiên khai hóa chúng
sanh để thay Trời làm việc nghĩa [thì sẽ được về trời].
Hôm nay chúng tôi được
phép Đức Ngọc Đế và Tam Giáo Tòa về viếng thăm quý hữu, thấy trường Tiên nầy:
Siêu quang tọa vị
Quý hiền thi Vân Hội
Mẹ Thầy dẫn lối
Thánh Phật đưa đường
Tiên Thánh còn thương
Thần đường soi ngõ
Cố mà chịu khó
Để có lập công
Xong Hội Hoa Long
Tròn xong phận sự
Trời thương ân tứ
Để lại tử tôn
Thân xác lấp chôn
Thần hồn xán lạn.
Vậy tôi có đôi lời viếng
thăm quý hữu. (…) Vậy thì:
Cám ơn quý hữu thiện thành
Chí tâm đàn nội Nho sanh
chực chờ
Phật Tiên ra những dòng
thơ
Thầy thương ân thưởng, Mẹ
chờ rước đi
Phải trang chí sĩ tu mi
Phải người liệt nữ kiên
trì sắt son.
Xin kiếu.
HUỆ KHẢI
(Trích HỒ BIỂU CHÁNH XƯA VÀ NAY. Hà Nội: Nxb
Tôn Giáo, 2014.)