Thứ Tư, 11 tháng 9, 2024

Một Chữ Không / GIÓ BỐN PHƯƠNG. Tập Hai

 GIÓ BỐN PHƯƠNG. Tập Hai

Một Chữ Không

Trong Tam Nguơn Giác Thế Kinh có bài thánh thi thất ngôn bát cú, mở đầu với câu: “Khán đắc phù sanh nhứt thế không.” Kính nhờ hiền huynh giảng nghĩa giúp. 

Ngọc Giáo Hữu Ngô Văn Đài (thánh tịnh Ngọc Lâm Tiên Đài, Hội Thánh Cao Đài Tiên Thiên, Tân Phú, Đồng Nai). Thư ngày 05-9-2024.

HK phúc đáp:

1/ Trong Vút Một Đường Mây (Hà Nội: Nxb Hồng Đức, 2018, tr. 41), Huệ Khải viết:

Ông Hồ Vinh Quy (có sách viết Qui), pháp danh Từ Huệ, sinh năm 1872 (lớn hơn ngài Ngô sáu tuổi). Ông tự Trọng Quý, thường được nhắc tới trong sử sách Cao Đài là Lý Trọng Quý, hay Phán Quý (có sách viết Quí), vì làm thông phán ở Sài Gòn. Ông cao ráo, mảnh khảnh, nói như dân Nam Kỳ là dong dải; tánh tình nghiêm nghị, ôn hòa, ăn nói hoạt bát. Ông quy thiên ngày 01-4 Ất Dậu (Thứ Bảy 12-5-1945) và được táng nằm tại nghĩa địa Chiếu Minh ở Cần Thơ.

Ban đầu ông Quý thọ pháp với ngài Ngô, nhưng tới năm 1931 thì tách ra, thờ Tam Giáo, nên gọi là Chiếu Minh Tam Giáo để phân biệt với Chiếu Minh Tam Thanh theo chánh thống truyền lại từ ngài Ngô.

Ông Quý lập một đàn Tiên ở xóm Chài (Cần Thơ). Bộ phận thông công tại đàn này tiếp được quyển kinh Tam Nguơn Giác Thế (1931).”

2/ Tam Nguơn Giác Thế Kinh in tại nhà in An Hà, Cần Thơ, năm 1932, dày 207 trang. Ra đời năm 1911, nhà in này tên tiếng Pháp là imprimerie de l’Ouest (tạm hiểu: nhà in Miền Tây), chủ nhân là luật sư Gallois Montbrun (người Pháp). Nhà in đặt tại số 43-57, boulevard Galliéni (nay là đường Phan Đình Phùng, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ).

3/ Bài thánh thi hiền huynh nói tới là bài thất ngôn bát cú do Đức Quan Âm Như Lai ban cho trước khi Ngài “thăng” (từ giã đàn cơ). Bài này in ở trang 31-32 bản in nói trên; dĩ nhiên có nhiều lỗi chánh tả, giống như hầu hết kinh sách trong đạo Cao Đài xưa nay. (Trong ảnh chụp lại bài thánh thi nơi đây, tôi đã sửa các lỗi đó.)



Bài thánh thi này độc vận “ông”, với duy nhứt một chữ “không”, nên có thể tạm đặt nhan đề là “Một Chữ Không”.

Nguyên văn kèm chữ Nho như sau:

Khán đắc phù sanh nhứt thế không

Điền viên sản nghiệp diệc giai không

產 業 亦 皆 

Thê nhi phụ tử chung ly biệt

Phú quý công danh tổng thị không

是 

Cổ ngữ vạn ban đô thị giả

Kim ngôn bá tuế nhứt tràng không

Tiền tài thâu thập đa tân khổ

Lộ thượng huỳnh tuyền lưỡng thủ không.

两 手

4/ Cần lưu ý một số từ Hán-Việt trong bài thánh thi:

Câu 1

“Phù” là trôi nổi, bồng bềnh theo dòng nước. Do đó, “phù sanh” (phù sinh) là cuộc sống tạm bợ, không bền vững. Cung Oán Ngâm Khúc của Nguyễn Gia Thiều (1741-1798) có câu: “Kiếp phù sinh trông thấy mà đau.”

Câu 5

“Vạn ban” (không có “g”) 萬 般 là mọi thứ, muôn điều. Thí dụ: Thế thượng vn ban đô thị giả. 世 上 萬 般 都 是 假. (Muôn thứ trên đời đều không thật.)

“Vạn bang” (có “g”) 萬 邦 là muôn nước, tất cả các quốc gia. Thí dụ: “Trời người nối lại vn bang yên. (Đức Cao Đài Thượng Đế, Trung Hưng Bửu Tòa, Thứ Ba 09-9-1958)

Câu 8

“Huỳnh tuyền” (hoàng tuyền) là suối vàng, tức âm phủ. Năm 1933, nhà thơ Mai Lâm Đoàn Văn Thăng (1915-1992) có câu: Suối vàng nay đã lánh xa cõi đời.”

5/ Dịch nghĩa bài thánh thi:

Thấy được một đời sống tạm này là không.

Ruộng vườn tài sản đều cũng không.

Vợ chồng, con cái cuối cùng phải lìa xa.

Phú quý, công danh, tất cả đều là không.

Lời xưa nói tất cả mọi sự đều giả tạm.

Lời nay rằng kiếp người trăm năm là không.

Thu thập tiền tài thì chịu nhiều cay đắng.

Lên đường về suối vàng chỉ hai bàn tay trắng.

6/ Huệ Khải dịch thành văn vần như sau:

Ngó thấy một đời tạm vốn không

Ruộng vườn, của cải cũng đều không

Vợ chồng, con cái rồi ly biệt

Phú quý công danh tất thảy không

Xưa nói muôn điều đều giả hết

Nay rằng một kiếp sống bằng không

Tiền tài gom góp nhiều cay đắng

Âm phủ đường về tay trắng không

*