TIẾNG GUỐC NGƯỜI XƯA
NHƯ HẠNH
1.
Lũ trẻ xóm Hình Vuông đang xúm xít chơi trò bịt
mắt bắt dê trên khu đất trống trước thánh thất thì có tiếng reo to:
– A, thầy Ba về rồi bọn
bây ơi! ...
Tức thì mấy đứa khác cũng hùa theo một cách phấn
khích:
– Thầy Ba về, thầy Ba về
... Thôi nghỉ nghe, bữa khác chơi tiếp!
Bọn trẻ ùa ra quấn lấy chân ông lão mặc bộ áo
dài trắng, tóc búi củ tỏi. Chân ông đi đôi guốc gỗ không quai đẽo bằng thân cây
mứt. Chiếc nón Gò Găng ngửa ra phía sau để lộ khuôn mặt an nhiên tự tại phảng
phất nụ cười thanh thoát tiêu diêu. Xốc lại cái túi nải áng chừng khá nặng trên
vai, ông nở nụ cười hiền từ rồi đưa tay xoa đầu đứa bé nhất trong bọn. Thế là
như một thói quen, ông lão đi trước, tiếng guốc gỗ khua lộc cộc trên con đường
đất pha sỏi lởm chởm, bọn trẻ rồng rắn theo sau lưng. Một đứa khác mạnh dạn nắm
tay ông cùng đi vào thánh thất.
Dân quanh vùng vẫn quen gọi ngôi thánh sở Phước
Thiện nơi này là chùa Cao Đài cho dù danh xưng trong đạo gọi là thánh thất. Còn
đạo hữu sống quanh thánh thất tự nhận nơi mình ở là xóm Hình Vuông bởi khuôn
viên nơi đây vuông vức gần như đều cạnh. Nơi thờ Đấng Toàn Năng, người đạo gọi
là Thầy, được đặt trên tầng hai của ngôi thánh sở khang trang, nằm dưới đường
máy bay hạ cánh và chìm khuất trong khuôn đất rộng nhiều cây cối. Thỉnh thoảng
có tiếng máy bay ầm ì từ xa rồi bất ngờ rít lên một tiếng trước khi hạ thấp xuống
phi trường cách đó chưa tới cây số khiến bầy chim sẻ giật mình xao xác.
Hồi đó xóm Hình Vuông toàn là dân tản cư từ các
vùng quê ra như: Duy Xuyên, Điện Bàn, Quế Sơn, Thăng Bình ... Nhà tôi cũng là dân từ nơi khác nhưng ngoại đạo. Dù vậy,
tôi chơi thân thiết với bọn trẻ trong xóm nên ngày nào cũng chạy qua thất xem lễ,
chơi đùa. Đặc biệt là rất yêu kính và thân thuộc với thầy Ba.
Gần như ngày nào bọn tôi cũng chơi nơi khoảng đất
trống trước thánh thất và đợi thầy Ba về. Nghe mẹ tôi nói thầy thường đi bộ đến
nhà người quen để thăm hỏi, cúng quảy hay bàn chuyện đạo. Đôi khi gặp nhà đạo hữu
neo đơn, thầy vác cuốc ra dọn vườn, đánh luống trồng khoai, trồng sắn. Lúc về,
trong tay nải lúc nào cũng nặng những món quà quê như chuối, ổi, bó rau xanh,
nhúm đậu phộng... Đối với bọn trẻ chúng tôi
ngày đó, cái tay nải vải bạc màu nâu nhạt ấy như một túi càn khôn trong chuyện
cổ tích, có thể chứa đựng nhiều thứ bất ngờ và kỳ thú.
Ở chùa Cao Đài lúc đó ngoài thầy Ba còn có nhiều
vị nữa, rất nghiêm. Bọn trẻ chúng tôi vốn hay nghịch ngợm, hái trái, chọc tổ
chim nên thường hay bị rầy la lắm. Chỉ riêng có thầy Ba lúc nào cũng cười hiền
từ như ông Phật Di Lạc; ai nói gì, khen hay chê, thầy cũng cười, nụ cười thanh
thoát của bậc chân tu thánh thiện. Có lần, chúng tôi ném xoài chín trên cây sau
chùa. Ném thế nào không biết mà cả hòn đá tổ chảng bay xẹt qua nhánh cây rơi
trúng mái ngói kêu xoảng một tiếng. Bọn nó nhanh chân chạy mất, chỉ còn tôi mặt
mày xanh mét đứng chết trân. Đến khi tỉnh lại, tính co giò chạy thì nghe tiếng
thầy Ba ôn tồn sau lưng:
- Thôi, miếng ngói nớ bể hồi lâu rồi, con đừng
có sợ ... Thầy định thay miếng mới mà
nói hoài chưa làm được. Nhân tiện lần ni thay luôn kẻo mưa dột.
Nói rồi thầy dắt tay tôi vào sau chùa, mở tay nải
cho trái chuối chín rệu mật.
2.
Trẻ con xóm Hình Vuông thức dậy bằng tiếng
chuông báo đàn mỗi sáng. Tiếng chuông thong thả, ngân dài thành những vòng
thanh âm lan tỏa trong sương sớm. Người ta nói, sáng nào thầy Ba cũng dậy sớm
thỉnh chuông, cúng Thầy.
Thầy Ba vốn là bậc chơn tu thượng thừa ở Nam
Tông Phật Đường trong phố cổ Hội An, được Ơn Trên giáng đàn chỉ dạy quy hiệp
qua Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ để truyền bá mối Đạo Trời. Thế là thầy rày đây mai
đó, mà toàn mang guốc kẹp lội bộ, tối về ngủ lại chùa Phước Thiện từ khi chùa
chỉ là một ngôi nhà cấp bốn, nay chỉ còn là tàn tích xiêu vẹo nằm phía sau ngôi
chùa mới được khánh thành năm 1972.
Năm ấy, tôi học lớp Tám trường huyện, dù chuyện học
hành bận bịu cách mấy vẫn ghé qua chùa với hy vọng được trò chuyện cùng thầy.
Càng gần gũi tiếp xúc với thầy bao nhiêu tôi lại nhận ra nhiều điều khác lạ
toát lên từ bậc chân tu đi guốc kẹp.
Nếu cái không khí tĩnh lặng, trang nghiêm ở phía
trước thất lúc lễ bái luôn làm đứa bé trong tôi vừa kính vừa sợ thì nơi mái
hiên bên ngoài căn phòng đơn sơ của thầy Ba luôn đem lại sự bình an và thân thiết.
Thầy ít nói chuyện mà trên môi lúc nào cũng phảng phất nụ cười. Những lúc có lễ
trọng, hoặc những ngày rằm, mồng một thầy thường ở thất để cúng lễ, ngoài ra
thì chu du khắp nơi để giảng đạo, với đôi guốc gỗ không quai. Thầy đi bằng cách
kẹp chặt hai ngón chân cái và ngón trỏ vào cái chốt gỗ trên phần đầu guốc mà
không hề chệch bước nào.
Lại nói về đôi guốc đặc biệt của thầy. Không đứa trẻ
nào trong xóm Hình Vuông mà không một lần xin thử đôi guốc gỗ của thầy Ba. Nhìn
bọn trẻ thách đố nhau, bước đi trầy trật trên đôi guốc không quai, thầy chỉ cười
chớ không hề la mắng. Mỗi khi thầy đi đâu về, trong tay nải có thứ gì ngon đều
chia hết cho bọn trẻ. Hồi đó dân trong xóm nghèo lắm. Chiến tranh bứt họ khỏi
ruộng đồng, quăng ra xứ lạ nên mọi người phải làm đủ nghề để kiếm sống. Trẻ con
bữa đói bữa no là chuyện thường tình. Thầy luôn nhịn ăn để nhường phần cho bọn
trẻ. Có hôm, gặp người chạy loạn cơ nhỡ xin vô thất tá túc đỡ mấy hôm, thầy nhường
cả chỗ ngủ và miếng ăn cho họ. Thầy chỉ ăn tạm mấy củ khoai và bông hoa huệ luộc
chấm muối trắng ...
Nhiều người cho là thầy Ba muốn tu hành cách
khác người, muốn mình cao thượng và nổi trội hơn kẻ khác. Thay vì dạy bọn trẻ
kinh kệ, giáo lý thì thầy chỉ chăm chăm cùng bọn chúng nhặt những con chim non
rơi khỏi tổ về nuôi rồi khi lớn thả chúng bay về với trời xanh mây trắng. Tôi
đem điều này hỏi, thầy chỉ cười nhẹ rồi nói:
– Con còn nhỏ, chưa hiểu
hết chuyện đâu. Đừng nghe người ta nói này nói nọ mà xao lòng. Tình thương yêu
là cốt lõi của Đạo. Con người sống trong hòa ái sẽ cùng nhau hạnh
hưởng một đời sống yên vui, thung dung tự tại trong vòng tay ấm áp tình thương
yêu của Thầy Mẹ.
Lúc
đó, tuy không hiểu hết những gì thầy nói, nhưng trong lòng tôi vẫn thấy nhẹ
nhàng như vừa được tắm gội trong tình thương yêu của Đấng Toàn Năng.
3.
Vốn
dĩ thời gian không đợi ai bao giờ. Một sáng kia, khi ngồi trong căn phòng kín
bưng, chỉ có tiếng đánh máy chữ lóc cóc đều đều buồn tẻ, trong tôi chợt bật ra
câu hỏi rằng mình sẽ sống như thế này trong bao nhiêu năm nữa. Quanh quẩn trong
bốn bức tường văn phòng, tranh giành hợp đồng, tiêu pha những đồng tiền kiếm được
... Nhìn theo
con chim sẻ đậu vắt vẻo trên hàng dây điện ngoài kia, chợt thèm một khoảng trời
trong trẻo đến nhường nào.
Tôi bắt xe đò về quê, dự đám tang của người bà
con ở xóm Hình Vuông. Trong tôi tuy không cảm nhận một tình cảm rõ ràng nào
nhưng khi nghe các đạo hữu đọc kinh tôi đã rơm
rướm nước mắt. Những người khác cũng thút thít khóc. Ngước mắt nhìn lên, tôi thấy
trong màn sương mỏng chập chờn nước mắt thấp thoáng khuôn mặt quen thuộc của thầy
Ba. Ký ức tuổi thơ ùa về như một cơn gió khiến lòng tôi xao động.
Đêm đó, tôi ghé qua thất tìm thầy Ba. Thầy đã già
và ốm nhiều hơn tôi tưởng. Căn phòng thầy ở vẫn như xưa. Chiếc ghế tre thầy
dùng để ngủ bạc màu loang lổ. Tôi quên nói là thầy không ngủ trên giường bao giờ.
Chiếc ghế tre hơi ngả ra phía sau do tự tay thầy đóng để thay thế giường ngủ là
một trong cách thức tu tập của thầy suốt mấy chục năm qua.
– Con vẫn còn nhớ thầy à? Mới hồi nào con hãy còn đứa trẻ
nghịch ngợm leo cây bắt tổ chim, hái trái. Vậy mà đã hơn hai chục năm rồi chớ
ít chi. Đời người như giấc mộng.
Tôi kể cho thầy nghe cảm nhận của mình về hạnh phúc, khổ đau, tình thương, lòng đố kỵ, ganh ghét ... Thầy vẫn như xưa, trên khuôn mặt trang
nghiêm phảng phất nụ cười an tịnh:
– Con người một khi biết đau khổ tức là đã trưởng thành.
Con cũng vậy, rồi con sẽ tìm ra câu trả lời, sống phải làm gì để bình yên và hạnh
phúc.
– Từ nay, thỉnh thoảng con sẽ về thăm xóm, hầu chuyện cùng
thầy.
Thầy với tay lên kệ, lấy mấy quyển sách, khẽ khàng
nói thật chậm như gió thoảng:
– Con cầm mấy cuốn sách này về mà đọc; thầy tặng con làm kỷ
niệm. Bây giờ con đã trưởng thành, có thể hiểu được cái bao la của Đạo. Mai mốt
hữu duyên sẽ gặp lại nhau ...
Tôi thảng thốt bật lên câu hỏi:
– Vậy là thầy định đi đâu à?
– Thầy vẫn chưa biết sẽ đi đâu. Có thể về một miền quê xa
xôi nào đó, cũng có thể đến một vùng đảo xa. Nơi nào chưa có nhà Thánh, thầy sẽ
đến đó khai đạo. Thầy muốn dặn con điều này. Con là người được học hành đến nơi
đến chốn. Con có nhiều kiến thức là điều tốt nhưng đôi khi kiến thức đem đến tật
ngã mạn, không mang lại lòng tha thứ và tình yêu thương.
Tôi cầm lấy sách ôm vào ngực cúi đầu “dạ” một tiếng
thật khẽ, rồi chào thầy ra về.
Thầy quờ chân mang guốc, đứng dậy tiễn tôi. Tiếng
guốc gỗ lộc cộc trong buổi đêm ngày ấy vẫn còn vang mãi trong lòng tôi đến tận
bây giờ ...
24-4-2024
NHƯ HẠNH