Thứ Hai, 16 tháng 9, 2024

trùng quang; trùng quan / GIÓ BỐN PHƯƠNG -- tập Hai

 

GIÓ BỐN PHƯƠNG -- tập Hai (đang soạn)

trùng quang; trùng quan

Trong một thánh giáo ban cho tại Ngọc Kinh Thánh Tòa (Hội Thánh Cao Đài Bạch Y Liên Đoàn Chơn Lý) nhân dịp Trung Thu năm Nhâm Dần (1962), Đức Mẹ than: “Hỡi ôi! Tâm trí con ta chẳng những bất đồng, mà tư tưởng lại cách xa vạn dặm trùng quang! Con như thế ấy, hành đạo biết chừng nào đi đến nơi thành tựu!” Tệ muội phân vân, không biết bản cũ ghi là “trùng quang” có đúng không? Hay nên sửa là “trùng quan” mới đúng?

ĐT. Bích Vân (Mong Thọ, Kiên Giang). Tin nhắn ngày 16-9-2024.

Huệ Khải  phúc đáp:

Hiền tỷ có phải là cô giáo dạy văn không mà đặt câu hỏi tinh tế đến thế! Trước hết, ta thử tìm hiểu ý nghĩa “trùng quang” và “trùng quan”.

1. Trùng quang 重光 nghĩa đen là tái thứ kiến đáo quang minh 再次見到 (thấy lại ánh sáng lần nữa: seeing the light once more); nghĩa bóng làquang phục光復 tức là khôi phục nguyên hữu đích lãnh thổ恢复原有的領土 (khôi phục [lấy lại] lãnh thổ của mình lúc trước: recovering one’s original or former territory).

1.1. Do “trùng quang” có nghĩa là “lấy lại được đất nước đã mất” nên nhà cách mạng Phan Bội Châu (1867-1940) khi xưa sáng tác tiểu thuyết Trùng Quang Tâm Sử 重光心史 (tạm dịch là: Sử Lòng Phục Quốc) lấy bối cảnh nước Nam bị quân Minh đô hộ (đầu thế kỷ 15), với mục đích truyền bá tư tưởng yêu nước, kêu gọi đồng bào chống thực dân Pháp, giành lại độc lập.

1.2. Bởi vì “trùng quang” đồng nghĩa với “quang phục” nên năm 1912, nhà cách mạng Phan Bội Châu đã thành lập một tổ chức lấy danh xưng là “Việt Nam Quang Phục Hội” 越南光 復會, với mục đích quy tụ đồng bào yêu nước đánh đuổi người Pháp, khôi phục lãnh thổ Việt Nam.

1.3. Nói thêm, chí sĩ Phan Bội Châu một đời xả thân vì quốc gia, dân tộc Việt Nam. Sau khi tạ thế, Ngài đắc quả QUẢNG THÀNH THÁNH ĐỨC. Giờ Tý, ngày rằm tháng 11 Tân Sửu (Thứ Sáu 22-12-1961), Đức Thánh giáng cơ dạy bài “Tự Trọng Thân Danh”, in trong “Phẩm Trung Thừa” của bộ Tam Thừa Chơn Giáo, là bửu kinh “trấn môn” của Hội Thánh Trung Ương Trung Việt Tam Quan (Hoài Nhơn, Bình Định).

1.4. Xét ý nghĩa như nói trên, hai chữ “trùng quang” không phù hợp ngữ cảnh câu thánh ngôn Đức Mẹ dạy khi xưa.

2. Trùng quan gồm “quan” và “trùng” ghép lại.

2.1. “Quan” là cửa ải, biên ải giáp ranh nước khác (frontier pass). Chúng ta có ải Nam Quan , tức là ải của nước Nam.


Chốn biên ải vốn xa xôi, hiểm trở, có núi non; do đó, văn học hay nói “quan san” 關山 (cửa ải và núi) hàm ngụ rằng đường đi xa xôi, cách trở. Bởi vậy, diễn tả lúc nàng Kiều và người tình là Thúc Sinh ly biệt, Nguyễn Du (1766-1820) hạ bút viết hai câu diễm tuyệt: “Người lên ngựa, kẻ chia bào / Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san.” (Chữ nhuốm này là thần bút; ai viết sai thành “nhuộm” thì Tố Như khóc thét.)

2.2. “Trùng” là nhiều lần; chồng chất; nhiều từng (tầng); lớp lớp. Do đó, “ trùng ba” 重波 là nhiều lượn sóng. Nói về cảnh khổ cõi đời trần tục này, kinh sách có câu “khổ hải vạn trùng ba” 苦海萬重波 (biển khổ vô vàn lượn sóng).

Cũng thế, “trùng san” 重山 là nhiều dãy núi. Vương An Thạch 王安石 (1021-1086) có câu thơ: “Chung San chỉ cách sổ trùng san” 鍾山只隔數重山 (Núi Chung chỉ cách mấy lớp núi.)

2.3. Xét các nghĩa như trên, suy ra “trùng quan” 重關 nghĩa là nhiều lượt ải quan, là lớp lớp ải quan, tức là xa xôi cách trở vô vàn, khó mong đi tới nơi.

Thế thì, tư tưởng lại cách xa vạn dặm trùng quan có nghĩa là giữa đồng đạo với nhau mà tư tưởng khác biệt nhau, xa cách nhau vô chừng vô tận. Đã bất đồng tư tưởng như thế thì người đạo đành phải rơi vào cảnh huống đáng buồn như Đức Mẹ than: Con như thế ấy, hành đạo biết chừng nào đi đến nơi thành tựu!”

HK.

Thứ Bảy, 14 tháng 9, 2024

Nhà văn HỒ BIỂU CHÁNH đắc quả Thánh

 


Nhà văn HỒ BIỂU CHÁNH

đắc quả Thánh có giáng cơ

HUỆ KHẢI

Minh Đức Nho Giáo hình thành qua cơ bút, khởi đầu từ năm 1932 tại Ba Động, làng Trường Long Hòa, quận Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh.

Người có công gầy dựng buổi ban sơ là ông Ngô Nghiêm Sanh, thánh danh Chơn Minh Sanh, tạ thế năm 1980, đắc quả vị Thiên Minh Quang Bồ Tát. Cùng góp công đức gầy dựng là ông Ngô Minh Bè (bào huynh ông Sanh) đắc quả vị Huỳnh Quang Bồ Tát.

Do lịnh Ơn Trên qua cơ bút, Minh Đức Nho Giáo cất Khổng Thánh Miếu ở Trà Vinh, mở hai đàn Chí Thiện (Trà Vinh) và Tân Dân (Nha Rộn, Bạc Liêu; sau dời về Sài Gòn) để Ơn Trên dạy đạo qua cơ bút.

Trước năm 1975, bộ phận thông công Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam (nay gọi là Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo, số 171B Cống Quỳnh, quận 1, TpHCM) vâng lịnh Ơn Trên có về Trà Vinh lập đàn cơ tại Khổng Thánh Miếu của Minh Đức Nho Giáo.

Qua cơ bút tại Minh Đức Nho Giáo, nhà văn Hồ Biểu Chánh (Hồ Văn Trung, 1884-1958) đã nhiều lần giáng đàn.

Sinh thời, ông làm công chức hành chánh, thăng lên đến ngạch đốc phủ sứ (1936), được bổ làm chủ quận (quận trưởng) nhiều nơi, có tiếng là thanh liêm, mẫn cán, yêu dân, thương người nghèo khổ.

Ông viết rất khỏe, gồm nhiều thể loại: 64 tiểu thuyết; 12 tập truyện ngắn và truyện kể; 2 truyện dịch; 12 vở kịch và tuồng hát; 5 tập thơ và truyện thơ; 8 tập ký; 28 tập khảo cứu, phê bình; nhiều bài diễn văn.

Tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh nôm na, bình dị. Ông mượn tiểu thuyết nhằm đề cao phẩm hạnh phụ nữ và các giá trị luân lý truyền thống theo đạo đức Nho Giáo.

Hồ Biểu Chánh đích thực là cây bút dùng văn chương chở chuyên đạo lý (văn dĩ tải đạo) với chủ đích góp phần xây dựng xã hội Nam Kỳ thời thuộc Pháp đang bị băng hoại nhiều giá trị về nhân luân phẩm tiết.

Hồ Biểu Chánh đắc quả Thánh

Tam Nguơn Giác Thế Kinh (Cần Thơ: nhà in Phương Nam, 1953), trang 36, có một thánh giáo ngày 02-11 Tân Mùi (10-12-1931) do Đức Thần Oai Viễn Trấn Quan Thánh Đế Quân giáng cơ dạy:

“Phàm người tu hành mà đặt đặng một bộ kinh sám khuyên chúng làm lành thì người ấy đặng thành Tiên. Còn người văn chương quân tử mà làm đặng một pho sách dạy chúng luân thường đạo lý thì người đặng thành Thánh.”

Lời dạy này được minh chứng qua trường hợp nhà văn Hồ Biểu Chánh.

Thật vậy, Hồ Biểu Chánh suốt cuộc đời không phải là thầy tu, nhưng lại trọn vẹn làm người hiền đức, thanh liêm, cần cù. Nhà văn hăng say, miệt mài mượn sách vở, chữ nghĩa để củng cố luân thường đạo lý xã hội giữa thời nước mất nhà tan, phong hóa suy đồi. Sáu mươi bốn quyển tiểu thuyết của ông là “con thuyền” chở chuyên đạo lý Khổng Mạnh. Ngoài ra, ông còn viết không ít khảo luận, diễn văn về tôn giáo như:

- Giáo Lý Của Đạo Phật (diễn văn, Gò Công 1948).

- Mạnh Tử Với Chủ Nghĩa Dân Chủ (diễn văn, 1945).

- Nho Giáo Và Chánh Trị (diễn văn, 1946).

- Nho Giáo (diễn văn, Gò Công 1948).

- Nho Giáo Tinh Thần (khảo cứu, 1951).

- Nho Học Danh Thơ (khảo cứu, Gò Công 1948).

- Phật Giáo Cảm Hóa Trung Hoa (khảo cứu, 1950).

- Phật Giáo Vào Việt Nam (khảo cứu, 1951).

- Phật Tử Tu Tri (khảo cứu, Gò Công 1948).

- Thiền Môn Chư Phật (khảo cứu, Gò Công 1949).

Theo giáo lý Cao Đài, ông đã làm tròn bổn phận về phần Nhơn Đạo. Nhờ công đức to tát ấy ông đã được Đức Thượng Đế ban phong phẩm Thánh, và Thiên Đình cho phép ngài Hồ Biểu Chánh trở lại trần gian, mượn cơ bút Minh Đức Nho Giáo (Khổng Thánh Miếu) để dạy đạo.

1/ Ngày 08-01 Quý Dậu [28-02-1993], nhân dịp làm lễ an vị đàn Tân Dân (mới dời về đường Đông Hồ, phường 8, quận Tân Bình, Tp.HCM), ngài giáng cơ cho bài thơ xưng danh như sau:

HỒ nước trong ta mà cố lược

VĂN TRUNG đây mực thước nào xê

Chánh tâm rồi được quy về

An lòng tự tại nhàn quê mỉm cười.

Đây là lối thơ quán thủ, lấy ba chữ đầu câu thơ ghép thành tên khai sanh của ngài thuở còn tại thế gian là Hồ Văn Trung.

2/ Ngày 13-3 nhuần năm Quý Dậu [04-5-1993], tại Chí Thiện Đàn, ba Đấng thiêng liêng cùng giáng đàn, xưng danh qua bài thơ tứ tuyệt vừa quán thủ (Lê Văn Duyệt), quán tâm (Phan Thanh Giản), và quán yêu (Hồ Văn Trung). Liền sau đó ba vị ban cho hai vé thơ song thất lục bát khuyến tu.

ngọt PHAN an HỒ nước đầy

VĂN nhơn THANH dạ VĂN hòa xây

DUYỆT lòng GIẢN(g) TRUNG còn trực

Tạo đức phước lành đệ tử gây.

3/ Ngày 24-12 Quý Dậu [04-02-1994] tại Tân Dân Đàn, ba Đấng thiêng liêng (Lê Văn Duyệt, Phan Thanh Giản, Hồ Văn Trung) lại cùng giáng cơ lần nữa, xưng danh qua bài thơ như sau.

thanh PHAN ánh nước HỒ trong

VĂN THANH thanh VĂN toại lòng

DUYỆT lại GIẢN(g) bài TRUNG liệt sĩ

Chào mừng thọ ký chánh dày công.

4/ Ngày 03 Giêng Ất Hợi [02-02-1995], ngài Hồ Biểu Chánh giáng cơ tại Tân Dân Đàn:

Đạo công bồi HỒ trong nước biếc

VĂN TRUNG thành nhiều việc phải làm

Chánh tâm tứ đức không tham

Lợi danh chẳng mến cố làm hiền nhân.

Nhớ khi xưa ở trần nhẫn nhục

Đặt văn chương un đúc khách tài

Thành công mới được hôm nay

Văn nhân mặc khách làm hoài không ngưng.

5/ Ngày 07-12 Nhâm Thân [30-12-1992], tại Chí Thiện Đàn, ngài Hồ Biểu Chánh giáng cơ dạy:

HỒ nước trong vẹn bề cố lược

VĂN trau giồi mới được thành nhân

TRUNG kiên BIỂU CHÁNH chuyên cần

Cũng như đại hội Phong Thần Thầy cho.

Về nơi đây trường Nho tái thiết

Học Thánh Nhân còn biết nhiều bài

Mong rằng nhu sĩ thới lai

Tuyển thi quân tử anh tài dày công.

Đức Chí Tôn xét duyệt sách của Hồ Biểu Chánh

và phong ngài làm Thánh

Ngày 07-12 Nhâm Thân [30-12-1992], tại Chí Thiện Đàn, ngài Hồ Biểu Chánh giáng cơ dạy:

HỒ VĂN TRUNG tự BIỂU CHÁNH. Tôi chào mừng.

Để quy nguyên đại đồng Vân Hội

Đức mãi trau, đức trội lòa lòa

Nhìn xem hiền sĩ nghìn hoa

Vun phân tưới nước để hoa đủ màu.

Lòng nhân ái thanh cao từ huệ

Mượn trường Tiên sớm kệ chiều kinh

Hòa chung trở lại Thiên Đình

Hòa chung khách tục vẹn gìn sử bia.

Nầy các hiền sĩ, tôi là HỒ VĂN TRUNG tự là BIỂU CHÁNH, hôm nay được Đức Ngọc Đế và Tam Giáo Tòa cho về đây là:

Nhờ công khó đặt nhiều bài tốt

Để lại đời người dốt còn xem

Minh tâm Ngọc Đế vén rèm

Lựa thi tuyển chọn còn đem trở về.

Mỗi bài ra châu phê trước án

Để lại đời bậu bạn hiền nhu

Khi xưa tôi cũng biết tu

Tròn xong Nhơn Đạo hiền nhu Thầy chờ.

Lật trang sách để nhờ kiểm duyệt

Đức Ngọc Hoàng chẳng tiếc phê cho

Sử kinh bổn phận làm trò

Còn tôi đoạt bảng như hò cống xê.

Tuy nói rằng đường dê sẵn vạch

Phận làm người phân tách Trời ban

Trời thương nên mở khoa tràng

Sĩ nhu quân tử leo thang khứ hồi.

Người chánh trực nào bôi tên tuổi

Tuy sự đời có rủi có may

Sao bằng tu với Cao Đài

Sao bằng Tiên Phật mỗi ngày chấm phê.

Bởi vì tôi là đại nguyên nhân lâm phàm nên biết đặt sách ra cho thế nhân xem học hỏi. Tôi làm xong phận sự ở quan trường, tôi thương dân chúng, đặt sách răn đời.

Hôm nay bỏ xác rồi, tôi được Đức Ngọc Đế chấm phê là trung hậu, nhân đức. Sách tôi để lại dù không văn hoa lý sự như bây giờ, nhưng ẩn tàng đạo đức kinh luân. Nên khai [Hội] Long Vân nầy mới được Ngọc Đế chấm phê vào hàng Thánh, được ngang với các vị Thánh trung quân ái quốc. Gần đây các vị lão thành thì biết mặt, còn các em nghe danh vậy.

Hôm nay tôi về đây cho biết rằng tu chơn tạo đức thì bao giờ cũng thành đạo được. Như tôi vào quan trường mà hiền lương đạo đức, đặt sách để dạy đời mà còn được vào hàng Thánh; huống chi quý em đây thay mạng Trời [thực thi] Nho Tông chuyển thế, tế độ quần sanh mà không bằng tôi sao?

Có vị tu kỳ nầy không biết có được về [trời] hay không? Tôi xin tạm trả lời: Hễ có công làm ruộng thì có lúa gạo ăn, trồng cây gì thì ăn cây nấy. Các vị vào trường Tiên khai hóa chúng sanh để thay Trời làm việc nghĩa [thì sẽ được về trời].

Hôm nay chúng tôi được phép Đức Ngọc Đế và Tam Giáo Tòa về viếng thăm quý hữu, thấy trường Tiên nầy:

Siêu quang tọa vị   

Quý hiền thi Vân Hội

Mẹ Thầy dẫn lối     

Thánh Phật đưa đường

Tiên Thánh còn thương

Thần đường soi ngõ

Cố mà chịu khó                 

Để có lập công

Xong Hội Hoa Long         

Tròn xong phận sự

Trời thương ân tứ

Để lại tử tôn

Thân xác lấp chôn  

Thần hồn xán lạn.

Vậy tôi có đôi lời viếng thăm quý hữu. (…) Vậy thì:

Cám ơn quý hữu thiện thành

Chí tâm đàn nội Nho sanh chực chờ

Phật Tiên ra những dòng thơ

Thầy thương ân thưởng, Mẹ chờ rước đi

Phải trang chí sĩ tu mi

Phải người liệt nữ kiên trì sắt son.

Xin kiếu.

HUỆ KHẢI

 (Trích HỒ BIỂU CHÁNH XƯA VÀ NAY. Hà Nội: Nxb Tôn Giáo, 2014.)

Thứ Năm, 12 tháng 9, 2024

NHỮNG ĐIỀU TRÔNG THẤY MÀ ĐAU ĐỚN LÒNG (Nguyễn Du)

" NHỮNG ĐIỀU TRÔNG THẤY MÀ ĐAU ĐỚN LÒNG " (Nguyễn Du)

CỘNG NGHIỆP

Mọi sự việc xảy ra trên thế gian không phải ngẫu nhiên mà tất cả đều do luật nhân quả. Mỗi người, do nhân mình đã gieo phải chịu nhận lãnh cái quả riêng. Quả riêng của một người gọi là biệt nghiệp. Ngoài cái quả riêng ấy, cá nhân sống trong gia đình, xã hội, quốc gia, thế giới còn phải chia sẻ hay gánh chịu một phần cái quả chung của tập thể. Cái quả chung của nhiều người gọi là cộng nghiệp.

Do đó, ở Việt Nam, ông bà ta thuở xưa rất cẩn thận trong việc dựng vợ gả chồng cho con, nhất là các gia đình có truyền thống tu hành đạo đức. Các cụ luôn tìm hiểu xem gia đình thông gia tương lai có phải là gia đình đạo đức hay không. Cho dù gia đình ấy có giàu nứt đố đổ vách nhưng tài sản làm ra phi nghĩa, bất chánh, thì các cụ nhất định không chịu kết làm thông gia vì sợ con mình về làm dâu hay làm rể nhà ấy phải gánh chịu chung cộng nghiệp của họ. Sự thận trọng hữu lý này được người xưa đúc kết thành lời khuyên như sau: Lấy vợ xem tông, lấy chồng xem giống.

Mỗi người còn phải gánh chịu cộng nghiệp của quốc gia và của toàn thế giới.

1. Đã đến lúc chúng sanh phải trả cộng nghiệp

Thời hạ nguơn mạt kiếp là lúc cộng nghiệp của nhân loại đang báo ứng rốt ráo và khốc liệt, bởi lẽ đây là thời kỳ cùng cuối của một đại chu kỳ tiến hóa của vũ trụ để lập lại trời mới đất mới. Đức Diêu T Kim Mẫu dạy:

Các con có biết chăng luật nhân quả vẫn luôn luôn tiến hành trong thời kỳ hạ nguơn mạt kiếp. Vạn linh sanh chúng đang đắm chìm trong lửa dục, trong biển khổ, trong tham vọng đỉnh chung, để rồi tất cả đều chịu sàng sảy đào thải.([1])

Đã có rất nhiều thánh giáo của Thiêng Liêng trong Tam Kỳ Phổ Độ cảnh báo trước về sự kiện chúng sanh hoàn cầu phải chịu chung cộng nghiệp trong thời hạ nguơn mạt kiếp. Đức Chí Tôn dạy:

Sanh linh luống chịu sầu than

Lại thêm động đất, thêm càng gớm ghê

Khi không rúng động tư bề

Chinh nghiêng lúc lắc, cửa nhà đổ xiêu

Sanh linh tuyệt mạng càng nhiều

Tường đè cột đập, chín chiều thiết tha

Cơ Trời phong vũ bất hòa

Càng sanh ôn dịch xảy ra khắp ngàn

Làm cho tuyệt mạng muôn vàn

Ngũ Lôi đả tử thêm càng kêu vang

Còn nhiều gươm súng thác oan

Thây phơi chật đất, máu tràn đầy sông

Sanh linh đồ thán khắp vòng

Hoàn cầu Âu Á cũng đồng nạn tai.([2])

Đức Thánh Trần Hưng Đạo dạy:

Cuộc đào thải vô cùng to lớn

Tối mặt mày, rùng rợn tâm can

Bịnh Trời pht ác trừ gian

Hoàng trùng, ôn dch, cơ hàn, binh đao.

Nạn nước lửa ào ào lan khắp

Họa phái phe, giai cấp tương tàn

Yêu ma đại náo trần gian

Tương xâm tương sát, oan oan tương cừu.([3])

Vào năm 1995, tại Minh Lý Thánh Hội, Đức Đông Phương Lão Tổ cho biết trước:

Cộng nghiệp của chúng sanh từ vô thỉ đến nay, trải qua nhiều đời vô số kiếp, dồn chứa thành núi lớn Tu Di...([4])

(B)ốn biển năm châu ngửa nghiêng đảo lộn. Đất sụp chôn sống từng loạt. Nước dâng phủ ngập lôi cuốn sanh linh từng đoàn. Nắng thiêu vô số đồng bào. Ma vô thường bịnh tật lùa dắt đem đi. Bão tố, gió lớn xô đổ cả núi rừng, thành quách, đền đài...

Lời tiên tri của các Đấng thiêng liêng nay đã trở thành hiện thực.

Kể từ tháng 3-2020, cả thế giới nhân loại bắt đầu hứng chịu cơn đại dịch do virus Corona (Covid 19) gây ra, làm xáo trộn toàn cầu về mọi mặt chính trị, kinh tế, giáo dục, văn hóa, đời sống... Tính đến 15.30 giờ ngày 18-8-2020 đã có 22.067.280 ca nhiễm bệnh, 777.675 ca tử vong.

Ngoài đại dịch này ra, trong năm Canh Tý (2020), nhân loại còn phải hứng chịu biết bao nhiêu tai nạn khủng khiếp dồn dập: bão tố lũ lụt, sụp lở đất, tai nạn hàng không, nổ kho hóa chất, núi lửa phun trào, v.v…

Các thảm họa này trước đây đã từng xảy ra, nhưng dường như ngày nay càng lúc càng xảy ra thường xuyên hơn, hầu như cứ vài ngày chúng ta lại thấy một tin tức về những tai họa xảy ra cho con ngời. Chẳng hạn như vào ngày 04-8-2020 xảy ra vụ nổ ở Liban khiến hằng trăm người thiệt mạng và hơn 4.000 người bị thương, thì đến ba ngày sau lại xảy ra tai nạn hàng không: Máy bay Ấn Độ bị trượt đường băng gãy đôi làm cho 19 người thiệt mạng và nhiều người bị thương.

Đức Đông Phương Lão Tổ dạy về ngày tận thế như sau:

Ngày tận thế là lúc trái đất phải chịu trọng hình. Sự phán xét toàn bộ trên hoàn cầu, sự hành phạt đền tội trả quả đã công khai. Vật hữu hình tan hoại đã đành, cho đến vật vô hình hồn ma bóng quế cũng ùa nhau mà lùng kiếm kẻ thù, oan oan tương báo, không mảy lông nào tránh lọt. Buổi rốt ngày cùng, ai nợ ai ơn, ai gây ai tạo, ai vay mượn, ai cướp đoạt, lường lận, đến lúc nầy cũng phải thanh toán cho xong. Luật nhơn quả, lẽ công bình, Trời Phật cũng không tư vị cho được. Nên kỳ tận thế nầy để cho bất cứ ai trên đời còn sống, cũng như chúng sanh bên kia thế giới vô hình, được họp mặt giữa nhau để đền ơn báo oán, thanh toán xong món nợ thân thù, oan ưng đã từng gây tạo...

Chúng sanh tạo nghiệp nào thì theo nghiệp nấy mà lãnh bản án đến pháp trường. Chết nước, chết lửa, chết vùi lấp, chết đao binh, hay chết loại hình nào tội án đã định. Sát kiếp bằng cách nào bất ngờ không thể biết, cũng gọi tử hình.([5])

Những tai nạn, chết chóc thời cộng nghiệp khiến con người thình lình phải trả nợ oan khiên, chẳng ai biết đâu mà né tránh. Quả đúng như Nguyễn Du bảo:

Ma đưa lối quỷ đem đường

Lại tìm những chốn đoạn trường mà đi.

Nguyên nhân nào khiến cho con người phải chịu cộng nghiệp nặng nề như vậy?

Đức Thánh Trần Hưng Đạo dạy:

Ôi! Kiếp nạn lâm đầu khốc liệt

Mà mấy người hiểu biết nguyên nhân

Bởi ai tai nạn rần rần

Do đâu nên nỗi tấm thân giày bừa

Bởi nghiệp chướng dư thừa nhiều kiếp

Bởi đồng chung cng nghiệp nhơn sanh

Bởi chưng ăn ở không lành

Hung hăng, hiểm đc hóa thành giờ đây.([6])

Đức Chí Tôn dạy:

Này các con ôi! Cuộc thế đã biến chuyển nhiều rồi đó, các con ôi! Lớp đao binh chiến ha, lớp ôn dch hoành hành, sanh linh sao khỏi bỏ thây nơi chiến địa, sanh linh sao khỏi ngậm ngùi mà xa lìa trần thế vì tật bịnh.

Cái khổ của chúng sanh là không biết vì nguyên nhân nào thân phải chu trăm cay ngàn đắng như vậy. Thầy và các Đấng đã báo trước cho các con cảnh điêu linh thống khổ sẽ xảy ra cho nhân loại, cũng bởi oan gia nghiệp chướng từ ngàn muôn năm trước, nay tích tụ lại đày ải con người.

Con ôi! Sinh vt là người anh em của nhơn loi nhưng sống gần nhân loại thì b nhân loi cướp đi thân xác để phc v nhu cầu nuôi sống thân sanh của con người nơi trần thế.([7])

Thật vậy, mỗi ngày, trên toàn thế giới có hơn 200 triệu động vật trên mặt đất bị giết chết để làm thực phẩm cho con người. Nếu cộng thêm động vật hoang dã và thủy sản thì có khoảng 3 tỷ động vật bị tàn sát mỗi ngày. Như vậy, trên toàn thế giới, hằng năm, có tất cả 72 tỷ động vật trên mặt đất bị giết hại và hơn 1.200 tỷ sinh vật biển bị giết hại để làm thực phẩm cho con người.

Tổ chức Mercy for Animals (Lòng từ bi thương xót động vật) đã thực hiện một tài liệu video có nhan đề tiếng Anh là From Farm to Fridge (Từ Trang Trại Đến Tủ Lạnh) và được dịch sang tiếng Việt là Lò Sát Sinh Thời Nay. Video tài liệu này cho thấy sự tàn ác, man rợ của con người đối với các loài động vật. Qua đó, tổ chức Mercy for Animals kêu gọi con người trên khắp hành tinh hãy thương xót các sinh vật đáng thương mà chấm dứt việc ăn thịt động vật.

Nhà hoạt động vì quyền động vật Philip Wollen đã kêu gọi: “Hãy chung tay đưa động vật ra khỏi thực đơn và khỏi những địa ngục tra tấn (lò mổ, lò sát sinh). Hãy ủng hộ cho những đứa con của Mẹ Trái Đất không thể lên tiếng bảo vệ bản thân mình. Nếu như tường lò mổ trong suốt thì bạn sẽ không dám ăn thịt nữa.”

Xem video From Farm to Fridge rồi, mọi người hãy thương xót cho các loài động vật phải chịu đau đớn đến cùng cực để rồi phát tâm ăn chay. Những vị đã ăn chay trường thì xem để kêu gọi con cháu, người thân trong gia đình mình hãy có lòng lân mẫn xót thương các sanh linh kém tiến hóa hơn mình. Xem video này để thấy rằng bữa ăn của những người còn dùng thịt động vật chan đầy nước mắt, đẵm máu hồng và những nỗi uất hận của các loài động vật.

Kinh Sám Hối dạy:

Lòng trời đất thương đều muôn vật

Đức háo sanh Tiên Phật một màu

Thượng cầm hạ thú lao xao

Côn trùng thảo mộc, loài nào chẳng linh.

Nó cũng muốn như mình đặng sống

Nỡ lòng nào tuyệt giống dứt nòi

Bền công kinh sách xem coi

Vô can sát mạng, thiệt thòi rất oan.

Sấm Giảng Trung Giang ([8]) khuyên hãy ăn chay:

Thịt thà, xương máu tanh hôi

Cỏ cây, rau cải cũng rồi bữa ăn.

Đức từ bi thường hằng thể hiện

Không sát sanh lòng thiện ta còn

Lạt chay tuy chẳng ngọt ngon

Còn hơn thú vị cơm chan máu hồng.

Nghiệp sát sinh của loài người chính là nguyên nhân chủ yếu đưa đến cơ cộng nghiệp mà nhân loại ngày nay đang phải hứng chịu. Đức Chí Tôn dạy:

Bao nhiêu uất ức khổ đau, sinh loài đã chịu biết bao nhiêu lâu nay, giờ đã đến lúc các tư tưởng uất ức đó tụ lại để gieo oán, trả thù cho việc tàn ác của loài người.

Những mầm chủng tử từ những nỗi uất ức đó sinh ra, sẽ tác phát trên con người thì ôi thôi, nhân loài sao tránh khỏi. Thần Tiên thấy cũng chau mày nhưng không thể ra tay cứu giúp được vì đó là nhân quả.([9])

2. Làm thế nào để tránh được cộng nghiệp?

2.1. Phát hạnh bất sát sanh và lo tu niệm, bỏ dữ làm lành. Đức Chí Tôn dạy:

Chỉ có những người tu hành, phát hạnh bất sát sanh mới được Ơn Trên ra tay cứu giúp cho thoát qua tai kiếp này để ráng tầm tu thoát tục.([10])

Cuc đời nhiều nỗi tân toan

Phải lo tu nim mới an thân mình.

(...)

Thầy thương sanh chúng thiết tha

Muốn thi ân xá cho qua nạn hình

Nếu làm, mất cả công bình

Thiên cơ bất lu Thiên Đình pp linh

Nên Thầy giáng xuống tỏ tình

Khuyên con phải ráng cầu kinh của Thầy

Làm lành bỏ dữ từ đây

Ăn chay nim Pht có ngày thoát tai.([11])

Đức Thánh Trần Hưng Đạo dạy:

Chúng sanh biết dừng chơn tỉnh ngộ

Mới thoát nơi bể khổ trầm luân

Liền vào lạc cảnh đài xuân

Hồng ân ngày tháng vui mừng thảnh thơi.([12])

2.2. Người đạo đức tu hành theo chánh đạo luôn có được một khoảng trống an lành trong cơ cộng nghiệp. Đức Mẹ dạy:

Mẹ nhắc nhở các con giữ chánh tâm hành chánh đạo thì sẽ luôn luôn sẵn có một khoảng trống an lành sẵn dành cho các con trong cơ cộng nghiệp. Chỉ sợ các con thiếu đạo đức để hưởng khoảng trống đó mà thôi.([13])

2.3. Nếu phải chịu chết chung trong cơ cộng nghiệp, người thiện lành sẽ được siêu thoát thảnh thơi.

Trong một đàn cơ, vị nữ hướng đạo là Chưởng Quản Bạch Diệu Hoa (1923-2009) bạch với Đức Quan Âm Bồ Tát xin giải đáp thắc mắc như sau:

Và thảng như hiện trạng ngày nay cuộc chiến tranh nguyên tử rủi bùng nổ thình lình, như vậy những người có tham gia trong cuộc chiến hoặc những kẻ chủ động, hoặc những người đã gây tạo nhiều tội trọng thì việc thọ báo đã đành; nếu kẻ vô tội, người thiện đức hoặc người tu hành, hoặc chư vị Bồ Tát thọ thân hóa độ, rủi họ vướng phải họa lây thì có oan khúc chi cho họ chăng?

Đức Quan Âm Bồ Tát giải đáp:

(V)ào vòng hiểm họa chúng sanh đồng phải thọ nạn tập thể như vậy. Những kẻ nhiều tội ác thì tất phải thọ quả ác. Người lương thin th nn như vậy tức là th phước. Vì sao?

Vì những kẻ tội ác hiểm độc nếu chết là hiểm nạn, chết là khổ não, chết là thối hóa, chết là mất mạng, mất lộc, mất lợi, mất thân, mất thể.

Người hiền lương, sống thường tu tạo phước đức, chết là hủy khổ sanh lạc, chết là chuyển nữ sanh nam, bần khổ sanh phú quý; nếu tướng mạo thô ác xấu tật lại chuyển sanh tướng hảo, căn trí hạ liệt chuyển sanh nhà tôn quý, được gần gũi thiện nhân, học thông đạo lý thành bực đa văn.

Vậy lúc thọ hiểm nạn tuy đồng, chỉ dứt một tấc hơi khổ lạc đều khác hẳn, tất chẳng có gì là oan cả.([14])

3. Trách nhiệm của người tu trước cơ cộng nghiệp của chúng sanh

3.1. Người tu phải có tấm lòng từ bi lân mẫn, biết sẻ chia, cứu giúp nhơn sanh trong cơn cộng nghiệp khổ nạn tai ương. Đức Phục Đức Tôn Thánh dạy:

Trước cộng nghiệp của toàn dân, người khóc kẻ cười, người đau khổ kẻ vui sướng, không có chi là lạ, vì đã gọi là cộng nghiệp thì dầu muốn dầu không gì mọi người không ít thời nhiều cũng chịu trong vòng ảnh hưởng, chỉ khác nhau là do sự chi phối tác động của luật nhân quả. Tuy nhiên, cũng không nên chấp cứng vào lý do nhân quả mà bảo thủ ích kỷ riêng, mà thái đ của người đưc mnh danh là con tin của Thưng Đế hơn lúc nào hết phải nhìn thấy sự tuần tự vận hành của vũ trụ. Nhìn thấy đây không phải chỉ thấy rồi than thở bàn tính, v.v... mà phải mở lòng thông cảm trước nỗi đau khổ của mi người để thấy cái may duyên của chính mình hầu hưởng được câu “Tri túc tiện túc, tri nhàn tiện nhàn” và khi đã hòa đồng thông cảm với mọi người cần phải có mt hành đng thiết thc hơn bằng cách chia sẻ những gì mình có đưc từ miếng cơm manh áo. Người đưc mnh danh là con tin Thưng Đế không bao giờ s đói, s thiếu thốn. Có hai ta chia mt, có nhiều ta chia nhiều, nếu được thế thì đâu có hiện trạng xảy ra ngày nay. Đó cũng bắt nguồn từ sự mất quân bình, kẻ giàu sang không đoái hoài đến người nghèo khổ, chỉ ôm chầm tư hữu tham ô bên cạnh những người đói rét cơ hàn.

Tuy nhiên, người đã đưc ân phước Thưng Đế ban trao mà không biết chia sẻ ân phước của tình To Hóa đến với mi người thì Thưng Đế sẽ lấy li ân phước đó. Chư huynh đệ hãy suy tư tìm hiểu.([15])

3.2. Người tu góp phần vào việc làm giảm bớt nghiệp quả riêng và chung. Đức Quan Âm Bồ Tát dạy:

Đành rằng cộng nghiệp nhưng tất cả đều làm lành lánh dữ, biết tránh sự sanh sát giết hại lẫn nhau, biết sợ luật điều vay trả, thì cơ bảo tồn được luân động chở che, dù cộng nghiệp cũng không đến nỗi vào cơ sàng sảy.([16])

Đức Giáo Tông Đại Đạo Thái Bạch Kim Tinh dạy:

Nếu dân chúng nơi nào vô đạo ác tâm thì địa phương đó phải xảy ra biết bao nhiêu cảnh đảo điên tai ách, nào chiến họa binh đao, đạo tặc, thủy hỏa, hoàng trùng, ôn dịch tưng bừng óng dậy nhiễu hại dân sanh.

Nếu dân chúng biết hồi đầu hướng thiện, biết trọng đạo tâm, biết làm lành lánh dữ, biết tu niệm học hành đạo lý, thì hãy vẹt khoát những gì tối tăm đang che lấp đạo tâm để được sự cứu rỗi trong kỳ mạt kiếp.([17])

Hiểu luật cộng nghiệp, người tu Tam Kỳ Phổ Độ ý thức rằng không phải mình tu riêng cho mình, được chăng hay chớ; mà mình còn tu cho thành thật để tác động vào cơ tiến hóa, phụ giúp công việc của Ơn Trên trong thời hạ nguơn.

3.3. Đạo hữu các tôn giáo nếu đồng lòng hòa hợp thì có thể giải được cộng nghiệp của chúng sanh. Đức Thái Thượng Đạo Tổ dạy:

Giữa thời nhiễu nhương ly loạn, cuộc phân hóa trầm trọng của nhơn sanh đã thành trường sát kiếp. Chư môn sanh là những con người biết giác ngộ trước cảnh đen tối mờ mịt của trần gian, mới được Thượng Đế ban trao sứ mạng Tam Kỳ Phổ Độ, một sứ mạng chung cho dân tộc được chọn. Nếu toàn thể những người được đứng trong khuôn viên tôn giáo đạo đức đều đồng lòng hòa hợp lại trong tinh thần vô cố, vô chấp, vô ngã, vô công, vô danh thì có lo chi không giải được sự cộng nghiệp của chúng sanh, đem lại thanh bình an lạc chung cho thế giới nhân loại.([18])

3.4. Người tu thiền có thể hồi hướng điển lành để giải tỏa các luồng ác khí gây ra thiên tai. Đức Đông Phương Lão Tổ dạy:

Muốn chống thiên tai, sát kiếp, chỉ cần phát tâm công phu thiền định, tọa công ngồi tại đạo tràng mà phóng tinh thần, gieo rải thiện duyên kết hợp với huyền linh ân điển xua đẩy sát khí. Tư tưởng càng mãnh liệt, hung sát tự khắc thối lui. Thiền định càng thâm, càng giải phóng cứu người càng dễ. (...)

Trong lúc tai biến, động loạn xáo trộn trên hoàn cầu, là một cơ hội cho đạo hữu phát tâm, gieo tư tưởng sự sống tình thương đến những nơi có tai biến. Kết quả rất lớn mà tiến đạo rất mau. Tu một lúc cũng bằng tu trọn đời. Dầu tu trọn đời mà không gặp cơ duyên, cũng không bằng tu một ngày có cơ hội.

Con người có Phật tâm, đạo đức, trông thấy cảnh lầm than liền động lòng thương xót, đâu như chai đá mà chẳng thấy khổ tâm. Đo hữu chuyên cần công phu tu hc thiền đnh, to mt bầu ho khí thái hòa chở che cho Thánh Hội, cho đo tràng, cho thân, cho xứ sở. Đó là công đức tăng cường nghị lực, làm chủ nội ma ngoại chướng. Khí lực được dồi dào, tinh thần minh mẫn, sức khỏe gia tăng, lập chí dẻo dai, nhiều ngày nhiều tháng lo không thành Phật được sao? ([19])

Tóm lại, qua lời dạy của các Đấng thiêng liêng, chúng ta hiểu được rằng nhân loại đang trải qua thời kỳ trả quả chung hay cũng gọi là cộng nghiệp do những nghiệp ác sát sanh từ bao nhiêu đời kết tụ lại. Tuy nhiên, nếu con người biết phát hạnh bất sát sanh, hồi tâm hướng thiện lo tu niệm, làm lành lánh dữ thì vẫn có thể làm giảm bớt cộng nghiệp chúng sanh. Đặc biệt, người chơn tu có được một khoảng trống an lành và phải có trách nhiệm cứu độ chúng sanh đang chịu khổ nạn trong cơ cộng nghiệp, nhất là các tịnh sĩ thực hành công phu tham thiền tịnh định lại có khả năng cứu người càng hữu hiệu.

Đức Như Ý Đạo Thoàn Chơn Nhơn dạy chúng ta một phương pháp hữu hiệu để chấm dứt mọi tai họa thảm sầu:

Khổ nạn lan tràn khắp đó đây

Đốt thiêu nhơn loại khổ dường này

Dầu đem hết nước nơi sông biển

Khó tắt lửa lòng kết họa tai.

Họa tai muốn dứt khó chi đâu

Thần lực riêng ai cũng nhiệm mầu

Hãy hướng nội tâm mà sử dụng

Tìm nguồn pháp thủy giải ưu sầu.([20])

Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo

29-6 Canh Tý (Thứ Ba 18-8-2020)

DIỆU NGUYÊN

Góp Nhặt Lời Quê. Hà Nội: Nxb Hồng Đức, 2020.­



([1]) Thiên Lý Đàn, 29-12 rạng 01-01 Canh Tuất (05-02-1970).

([2]) Cao Sĩ Tấn (kết tập), Chơn Lý Hiệp Tuyển. Bốn tập. Sài Gòn: xb theo giấy phép số 195-TXB ngày 25-3-1954.

([3]) Trung Hưng Bửu Tòa, 09-01 Giáp Dần (31-01-1974).

([4]) Có ý kiến giải thích rằng núi Tu Di là một biểu tượng, tượng trưng cho sự to lớn, vĩ đại. Cũng như trong kinh Phật hay dùng thuật ngữ cát sông Hằng (hằng hà sa số) để chỉ về số nhiều, không thể đếm xuể.

([5]) Minh Lý Thánh Hội, 22-6 Ất Hợi (19-7-1995).

([6]) Trung Hưng Bửu Tòa, 09-01 Giáp Dần (31-01-1974).

([7]) Bảo Châu Thiên Lý Cảnh, 27-4-2009.

([8]) Sấm Giảng Trung Giang, Pháp Chủ Huỳnh Đạo thuyết (Xuân Đinh Mùi, 1967). Châu Đốc: Hội Thánh Nhị Giang, Tòa Thánh Bửu Sơn, Cẩm Sơn, Tri Tôn.

([9]) Bảo Châu Thiên Lý Cảnh, 27-4-2009.

([10]) Bảo Châu Thiên Lý Cảnh, 27-4-2009.

([11]) Cao Sĩ Tấn (kết tập), Chơn Lý Hiệp Tuyển. Bốn tập. Sài Gòn: xb theo giấy phép số 195-TXB ngày 25-3-1954.

([12]) Trung Hưng Bửu Tòa, 09-01 Giáp Dần (31-01-1974).

([13]) Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam, 13-8 Kỷ Mùi (03-10-1979).

([14]) Pháp Bảo Tâm Kinh. California: Nxb Tam Giáo Đồng Nguyên, 2009, tr. 26, 32-33.

([15]) Vĩnh Nguyên Tự, 01-7 Đinh Tỵ (15-8-1977).

([16]) Vĩnh Nguyên Tự, 03-01 Giáp Dần (25-01-1974).

([17]) Vĩnh Nguyên Tự, 27-01 Ất Mão (09-3-1975).

([18]) Minh Lý Thánh Hội, 04-01 Ất Mão (14-02-1975).

([19]) Minh Lý Thánh Hội, 22-6 Ất Hợi (19-7-1995).

([20]) Vĩnh Nguyên Tự, 15-3 Ất Mão (26-4-1975).