PHIẾM LUẬN VỀ CHỮ PRINCE
NGUYỄN MINH
Tôi là một người mê đọc và thích viết lách
lăng nhăng. Thỉnh thoảng có nhà xuất bản thuê tôi dịch sách thì tôi cũng dịch,
kiếm tý tiền còm.
Chẳng biết các “dịch giả”, “dịch thật” khác nghĩ sao,
riêng với tôi, trong quá trình dịch thuật, tôi không ngán thuật ngữ phức tạp,
mà chỉ ngán những chữ rất đơn giản, thông thường. Điển hình như cách xưng hô,
trong tiếng Anh chỉ có I và you, còn tiếng Việt
thì thiên biến vạn hóa, mỗi lần dịch là mỗi lần nhức óc.
Ví dụ, trong một cuốn sách tôi từng dịch, có đoạn như
vầy:
“That you may know the state of the rest of my
misfortune, there is nothing left to me but honour and my life, which is saved - François I, in a
letter written after Pavia, 1525.”
Đây là lời vua Pháp François I viết trong một bức thư,
sau trận Pavia ,
diễn ra vào năm 1525. Đâu có gì khó phải không các bạn?
Thế mà lại khó, vì sách không ghi thư gửi cho ai.
Nhưng cần gì phải biết thư gửi cho ai. Hễ
đã là vua, tất tự xưng là trẫm, là ta, và gọi người đối thoại là khanh, là ngươi chứ gì?
Xin thưa: Không nhất thiết như thế. Sau khi lùng sục
Google, truy cho ra nguyên văn bức thư, mới hay đây là thư François gửi bà
Louise de Savoie, tức là… thái hậu. Nếu cẩu thả dịch thành ta – ngươi ắt
đã [bị] tổ trác!
Tương tự, mỗi lần gặp từ brother hoặc sister, tôi lại phải tra cứu mối quan hệ, xem nên dịch là anh, chị, hay em. Gặp aunt còn khổ hơn
nữa, không biết là bác, cô, dì, thím
hay mợ. Gặp uncle không biết là bác, chú,
dượng, hay cậu, cần tra cứu luôn
luôn. Mà đâu phải hễ tra là ra!
Tuy nhiên, hơn tất cả những từ trên, nếu được chọn một
từ tiếng Anh khó dịch sang tiếng Việt nhất, tôi sẽ không ngần ngại chọn
từ prince.
Vì sao? Prince tức là hoàng
tử thôi mà.
Nếu vậy thì cuốn Il Principe của
Machiavelli dịch là “Hoàng Tử”, cũng như Das Kapital của Marx
dịch là “Thủ Đô” à? ([1])
(. . .)
Chính vì không chú trọng từ Hán Việt, tình trạng dùng
từ mà không hiểu nghĩa đã trở nên rất phổ biến trong xã hội.
Nếu đều hiểu hoàng là hoàng đế, tử là con, hoàng
tử là con của hoàng đế, thì người ta đã không nhất loạt dịch prince thành hoàng tử.
Các cháu trai của Nữ Hoàng Anh Elizabeth II hiện nay
đều được báo giới Việt Nam
gọi là hoàng tử. Đấy là lối dịch rất ẩu, rất… “loạn luân”.
Cha ông chúng ta ngày xưa không thế. Chẳng hạn, Nguyễn
Phúc Cảnh, con trai của Thế Tổ Cao Hoàng Đế nhà Nguyễn (Gia Long), được gọi là
Hoàng Tử Cảnh. Nguyễn Phúc Đảm (Minh Mạng), một con trai khác của Gia Long, gọi
là Hoàng Tử Đảm. Cùng gọi hoàng tử, tức có quan hệ anh em. Nhưng Nguyễn Phúc
Đán, con trai Hoàng Tử Cảnh, cháu đích tôn Gia Long, thì gọi là Hoàng Tôn Đán.
Hoàng
tôn thấp hơn hoàng tử một
đời, nhưng người đời nay quên mất chữ “hoàng tôn”, cứ gặp prince là nhè ngay hoàng tử
mà phang. “Prince William is a grandson
of Queen Elizabeth II” dịch thành “Hoàng
Tử William là cháu của Nữ Hoàng Elizabeth II” thì vô nghĩa lý, khác nào bảo
“con của hoàng đế là cháu của hoàng đế”!
Prince Charles dịch là Hoàng Tử Charles, Prince William là Hoàng Tử
William, thì chẳng hóa ra hai người này là anh em với nhau ư? Quan hệ cha
con biến thành anh em, tức là “loạn luân”, đảo ngược luân thường! Dưới thời
quân chủ ngày xưa, nhầm lẫn thế thứ hoàng gia là tội trọng, mất đầu chứ không
chơi!
Tiếng Việt vô cùng chặt chẽ và nghiêm cẩn về thế thứ,
nên trong cùng một cuốn sách, có khi chỉ một chữ prince mà
phải dịch ra hàng chục chữ tiếng Việt khác nhau, chẳng hạn hoàng tử,
hoàng thân, hoàng tôn, vương tử, vương thân, vương tôn, tiểu vương, công tử,
v.v…
Sở dĩ phức tạp, là vì trước tiên, cần phân biệt giữa đế và vương. Đây không phải chuyện chữ nghĩa vớ vẩn, mà có khi là vấn đề
tự hào dân tộc, thể diện quốc gia. Xưa kia, vua Tàu phong vua ta chức An Nam
Quốc Vương, song vua ta vẫn tự xưng hoàng
đế, ngụ ý mình đứng ngang hàng, không kém vua Tàu. Do đó, khi dịch sang
tiếng Anh, danh hiệu của các vua Việt Nam phải là emperor, nếu dịch king,
tức tự nhận mình hèn kém, là thần tử của Tàu vậy!
Con của hoàng đế, gọi là hoàng tử;
con sẽ nối ngôi, gọi là hoàng thái tử (em/cháu được truyền
ngôi gọi là hoàng thái đệ/hoàng thái điệt); cháu nội là hoàng
tôn; chắt là hoàng tằng tôn; chút là hoàng huyền tôn… Khi
vua cha qua đời, hoàng tử sẽ trở thành hoàng thân.
Tùy theo quan hệ với vị vua mới, hoàng thân ấy có thể là hoàng huynh (anh
vua), hoàng đệ (em vua), hoàng thúc (chú
vua), hoàng bá (bác vua)… Ví dụ, Tuy Lý Vương dịch sang tiếng
Anh chỉ là Prince Tuy Ly, nhưng trong tiếng Việt, ông là hoàng tử của Minh Mạng, hoàng
đệ của Thiệu Trị, hoàng thúc của
Tự Đức.
(Đoạn trên là nói về con trai, còn con
gái hoàng đế gọi là hoàng nữ. Khi lớn
lên, đi lấy chồng, hoàng nữ sẽ được phong công
chúa. Danh xưng công chúa trong tương lai cũng sẽ thay đổi, tùy theo quan
hệ với vị vua đang cai trị. Ví dụ: Công chúa có thể trở thành trưởng công chúa (chị/em của vua), thái trưởng công chúa (bác/cô của vua), thái thái trưởng công chúa (bậc bà của
vua)... Tuy nhiên, chủ đề bài này là về prince,
nên về princess, chỉ xin nhắc sơ như
vậy.)
Với bậc vương, con của vương gọi
là vương tử; con sẽ nối ngôi, gọi là vương thế tử (thời
Lê – Trịnh, vua Lê là đế, chúa Trịnh là vương, con kế
vị của vua Lê là hoàng thái tử, con kế vị của chúa Trịnh là vương
thế tử); cháu nội là vương tôn… Tóm lại cứ thay chữ hoàng bằng
chữ vương.
(Đến đây, ta thấy lối viết thông thường “quốc vương và hoàng hậu” là không chính
xác, vì vợ quốc vương phải là vương hậu; hoàng hậu là vợ hoàng đế.)
Nhiều người hẳn sẽ nói sao mà phức tạp thế! Vâng, quả
có phức tạp, nhưng cái gì thuộc về vua chúa mà chẳng cầu kỳ, phức tạp. Vả lại,
văn hóa Việt Nam
minh định tôn ty, thứ bậc rất rõ ràng, tiếng Việt chỉ đơn giản phản ánh đặc
tính đó. Con phải là con, cháu phải là cháu, không thể đánh đồng hoàng
tôn với hoàng tử, hoàng tử với vương
tử.
Thêm nữa, vấn đề chưa dừng ở chỗ này, vì
ngoài nghĩa là con cháu, họ hàng của vương
hay đế, chính chữ prince cũng có thể là vương, hoặc tiểu vương, đây là nghĩa trong Il
Principe (Quân Vương) của
Machiavelli. Nước do một prince đứng
đầu gọi là principality, một từ hay
bị dịch sai trong tiếng Việt, chẳng hạn Principality
of Monaco dịch là Công Quốc Monaco.
Vì sao sai? Vì đế quốc (empire) do một hoàng
đế đứng đầu, vương quốc (kingdom)
do một quốc vương đứng đầu, thì công quốc (duchy) phải do một công (duke) đứng đầu, chứ sao lại prince? Hiện nay trên thế giới chỉ còn
một công quốc duy nhất là Đại Công Quốc Luxembourg (Grand Duchy of Luxembourg) mà thôi. Principality đứng giữa duchy
và kingdom, nên có thể dịch là tiểu vương quốc.
Chưa hết, nói tới công quốc, con trai của vị công
tước/công quân đứng đầu một công quốc
cũng gọi là prince. Prince trong trường hợp ấy phải dịch là công tử, rồi con công tử là công tôn, v.v…
Chữ prince phức tạp là thế. Ngay khi chỉ về
một người duy nhất, nó cũng có thể mang hai nghĩa khác nhau. Ví dụ, nghe Prince Charles, Prince of Wales, các bạn có nghĩ chữ prince đầu tiên khác với chữ prince
thứ hai không? Có đấy, chữ prince đầu
tiên chỉ địa vị hoàng tử, con trai nữ hoàng Elizabeth II, còn chữ thứ hai là
vương hiệu. Prince of Wales nghĩa là Wales Vương. Nếu thấy chữ Wales Vương
không xuôi tai, thì đổi thành Thân Vương
xứ Wales, hoặc phiên Hán Việt thành Uy
Nhĩ Sĩ Vương là xuôi ngay.
Tóm lại, nghề chơi nào cũng lắm công phu, dịch thuật
không là ngoại lệ. Nếu dịch thế nào cũng được, thì gặp chữ prince cứ phang hoàng tử
là xong, còn dịch có tâm một chút, ắt phải… lên bờ xuống ruộng!
NGUYỄN
MINH
Nguồn: Viet-studies, ngày
14-7-2019
GHI
CHÚ CỦA ĐẠO UYỂN
* Nghĩa 1: an
important male member of a royal family, especially a son or grandson of the
king or queen (một thành viên phái nam quan trọng trong hoàng gia, đặc biệt
là con trai hay cháu nội trai của vua hay hậu)
Chữ Nho là 王子 vương tử, 親王 thân vương, 王孫 vương tôn. Thí dụ:
- Prince Juan Carlos of Spain became
king in 1975. = 胡安‧ 卡洛斯王子于 1975 年成為西班牙國王. [Hồ An ([4]) Ca Lạc Tư([5]) Vương Tử ư 1975 niên thành vi Tây Ban Nha quốc vương. / Vương Tử Juan Carlos của vương quốc Tây Ban Nha trở thành quốc vương vào
năm 1975.]
* Nghĩa 2: a
male ruler of a country, usually a small country (người đàn ông cai trị một
nước, thường là nước nhỏ)
Chữ Nho là 国君 quốc quân.
Thí
dụ:
- Prince Albert II is the ruling prince of
Monaco. = 阿爾伯特二世親王是摩納哥的君主. [Á
Nhĩ Bá Đặc ([6]) nhị thế Thân Vương thị Ma Nạp Ca ([7]) đích quân chủ. / Thân Vương Albert II là quân chủ
của Monaco .]
Lưu ý, trong thí dụ cho nghĩa 2, Cambridge English-Chinese (Traditional)
Dictionary không đưa
vào chữ quốc quân mà lại dùng chữ quân chủ, có nghĩa là monarch hay sovereign,([8]) đồng nghĩa với king/queen.
2. Ngoài cách dịch công quốc, từ điển English-Chinese Cambridge còn dịch
principality ([9]) là: 侯国 hầu quốc, 封邑 phong ấp.