Thứ Năm, 24 tháng 10, 2019

CHUYỆN “GIÁO KHOA THƯ” CỦA TÔI (Đạo Uyển 32)

CHUYỆN “GIÁO KHOA THƯ” CỦA TÔI
Thời tiểu học của chúng tôi, ba kỳ cùng dùng bộ giáo khoa thư do Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Ngọc, Đặng Đình Phúc và Đỗ Thận biên soạn. Về sau, bạn bè gặp nhau, trong lúc nhàn đàm cũng có khi nhắc lại bài cũ, giống như các nhân vật của Sơn Nam.([1]) Còn đây là chuyện “giáo khoa thư” có phần riêng tư, chỉ giới hạn trong phạm vi hẹp, giữa tôi và một số người.
TRẦN HUIỀN ÂN


Tuổi hai mươi: dạy học, viết báo
Hai mươi tuổi, tôi bước vào nghề dạy học. Không lâu sau, cộng tác với tuần báo Tuổi Xanh do một số nhà giáo có uy tín (Bùi Văn Bảo [1917-1998],([2]) Hà Mai Anh, Bùi Quang Kim, Đoàn Xuyên…) chủ trương. Ông Bùi Văn Bảo bút danh Bảo Vân, còn ký Bê Bình Phương. Ông Hà Mai Anh đã được biết đến nhiều qua tác phẩm (dịch) Tâm Hồn Cao Thượng.([3]) Ông Bùi Quang Kim có khi ký Bê Ka. Ông Đoàn Xuyên, người hiền nhất, chỉ dùng tên thật.
Cũng là buổi đầu cầm bút của tôi. Tuổi đôi mươi tâm hồn trong sáng. Ở tỉnh nhỏ, lại ở nhà quê, mọi người sống với nhau tình cảm thật đậm đà. Thêm không khí học đường có thể nói như cõi thần tiên. Mỗi tuần tôi có trên Tuổi Xanh ít nhất là một bài thơ, một truyện ngắn, rồi còn ngụ ngôn, câu đố, v.v… Vui lắm! Bài vở pha chút yêu đương, lãng mạn thì đăng trên Văn Nghệ Tiền Phong. Chiến tranh chưa tái diễn, đêm không sợ pháo kích, đi tàu lửa, xe đò không sợ mìn… Không nghe chuyện cướp giật, đâm chém. Yên ổn. Thái bình. Khuya khoắt có thể thong thả đạp xe trên quốc lộ, những đoạn trống vắng không có xóm làng, và gặp một người lạ cũng như gặp một người quen, chào hỏi nhau, chẳng có gì bận tâm lo lắng.
Các nhà giáo nói trên đã từng biên soạn sách giáo khoa tiểu học. Khai giảng năm học 1961-1962, nhà xuất bản Sống Mới phát hành bộ Việt Ngữ Tân Thư, tác giả là quý ông Bùi Văn Bảo, Bùi Quang Minh, Chu Đức Nhuận, có dùng một số bài của tôi đăng trên Tuổi Xanh, như đoạn văn viết về ngày khai trường làm bài tập đọc đầu năm cho lớp Nhất,([4]) một số bài thơ làm bài học thuộc lòng cho lớp Nhất và lớp Nhì, tôi chỉ nhớ có bài Chuyến Đi Dài. Lúc này càng vui hơn, ở tuổi đời hai mươi bốn, chưa tròn bốn tuổi nghề, có thơ văn được giảng dạy cho học sinh tiểu học trong cả nước (cụ thể là cả miền Nam), chuyện đó tôi chưa hề mơ ước.
Góp phần biên soạn Tân Việt Văn
Cuối năm 1963, ông Bùi Văn Bảo soạn bộ Tân Việt Văn. Trong Lời Nói Đầu nêu rõ đặc điểm của bộ sách, khác với những lần trước:
Về bài tập đọc, chúng tôi nhờ các nhà văn yêu trẻ soạn những bài tập đọc thành một câu chuyện liên tục sát thực tế và gần gũi với trẻ em hơn. Học sinh trong khi tập đọc sẽ tìm thấy ở đó những người bạn quen thuộc, cùng làm việc và cảm nghĩ như mình, chắc chắn sẽ thấy thêm phần hứng thú… Để không thiếu sót, ở các bài chính tả chúng tôi đã lựa chọn những đoạn văn hay trong nhiều văn phẩm để cho các em làm quen với các lối hành văn khi thì bay bướm, văn hoa, khi thì hùng mạnh, sắc bén của các nhà văn nổi tiếng… Về văn vần dùng làm các bài học thuộc lòng chúng tôi đã hợp tác cùng một số thi sĩ để soạn riêng những vần thơ trong sáng, dễ hiểu, giàu nhạc điệu cho thích hợp với các em hơn…
Ông Bùi Văn Bảo và hai nhà giáo Bùi Quang Minh, Chu Đức Nhuận soạn các phần chuyên môn (như ngữ vựng, chính tả, văn phạm, tập làm văn, tập viết…), anh Lê Tất Điều [sinh năm 1942 tại Hà Đông] soạn phần tập đọc (vợ anh Điều cũng là một tác giả thường xuyên có bài trên Tuổi Xanh, tên chị rất hiền lành là Lê Thị Hiền Lành, bút hiệu Tường Chi), tôi soạn lớp Nhất, lớp Nhì, nửa niên khóa các lớp Ba, Tư, Năm. Hình ảnh minh họa, phụ bản do hai họa sĩ Nguyễn Mạnh Tuân và Huỳnh Phú Nhiều đảm nhận. Chúng tôi nhận được bản chương trình Việt văn của từng lớp, ông Bảo Vân đã chia ra hằng tháng, hằng tuần, theo chủ điểm. Trừ các tuần ôn tập, nghỉ tết, nghỉ lễ, mỗi niên khóa còn lại ba mươi tuần thực học, cần ba mươi bài tập đọc và ba mươi bài học thuộc lòng. Anh Điều xây dựng một nhân vật tên Dũng mười tuổi, gia đình có cha mẹ, một anh, hai em, còn ông bà nội đã già, có các bạn học là Hùng, Phong, Tâm. Các bài học thuộc lòng, có khi tôi viết hai bài (cùng chủ điểm); gặp chủ điểm thích thú như quê hương, làng xóm, tình yêu kính cha mẹ, thầy giáo… có khi tôi viết ba bài, tôi thêm bài của hai bạn thân là Vũ Dzũng (có bút danh Yên Hà) và Ngọc Mân (cha nhà văn Nguyễn Nhật Ánh) gởi cả vào để ông Bảo Vân lựa chọn. Khi sách xuất bản, tôi có hai mươi hai bài (trong tổng số ba mươi bài) học thuộc lòng lớp Nhất, Yên Hà một bài, Ngọc Mân một bài, còn lại của ông Bảo Vân hai bài, cụ Bạch Lĩnh một bài và mấy bài nữa trích trong tác phẩm cổ văn nói về Tổ Hùng Vương, Gia Huấn Ca. Học thuộc lòng lớp Nhì hầu hết là của tôi: 28/30 bài.
Tân Việt Văn cũng như Việt Ngữ Tân Thư đã được Hội Đồng Duyệt Sách Giáo Khoa của Bộ Giáo Dục cho phép được sử dụng trong các trường tiểu học, thêm vào đó việc quảng cáo và trực tiếp giới thiệu đến tận các trường của nhà xuất bản Sống Mới có hiệu quả cao nên mỗi kỳ nghỉ hè đều phải tái bản để cung cấp cho niên khóa mới. Thế nhưng đối với các tác giả, có lẽ phần nào không coi trọng việc giữ gìn, cho nên sau tháng 4-1975 tôi không còn một bản nào cả.
(Một số sách quốc văn bậc tiểu học dùng trong nhà trường lúc ấy soạn giả là các nhà giáo Lưu Văn Lê, Đặng Duy Chiểu [bút danh Chiêu Đăng] và của Trung Tâm Học Liệu Bộ Giáo Dục. Tôi cũng có mấy bài học thuộc lòng trong sách của ông Lưu Văn Lê và Trung Tâm Học Liệu).
Quê Em nơi xứ người
Cách đây mấy năm, Lê Thị Huệ ở Mỹ có bỏ công sưu tầm một số thơ cũ, gom thành tập Thơ Tình Nam 1975 (tức là thơ tình của các tác giả miền Nam trước tháng 4-1975, mỗi tác giả một bài). Mở đầu bài điểm sách (ngày 27-7-012) Nguyễn Thị Hải Hà viết:
Tôi không nhớ tôi bắt đầu được tiếp xúc với thơ từ lúc nào. Có lẽ từ khi tôi nghe những câu hò, điệu hát ru em. Vào tiểu học tôi thích những bài thuộc lòng vì đó là những câu thơ có vần và giàu âm điệu. Bài học thuộc lòng tôi học từ năm lớp Nhất đến giờ này tôi vẫn còn nhớ nguyên bài, bắt đầu với những câu:
Khi khôn lớn rộng đường ra hải ngoại
Nếu có người muốn biết rõ quê em
Mở bản đồ em sẽ chỉ người xem
Đây nước Việt bốn ngàn năm yêu quý …
Xin mở ngoặc: Hải Hà nay cũng ở Mỹ, tốt nghiệp kỹ sư cơ khí, cao học ngành quản trị kỹ nghệ và xây dựng trường New Jersey Institute of Technology. Ngoài công việc chuyên môn kỹ thuật thì sáng tác, dịch, và điểm sách.
Tôi hơi ngờ ngợ. Bài học thuộc lòng. Giống như thơ của tôi. Tôi không còn nhớ. Qua Lê Thị Huệ, tôi liên lạc với Hải Hà. Đúng là thơ của tôi. Bài Quê Em, sách Tân Việt Văn. Hải Hà chép lại, theo trí nhớ, gởi cho tôi trọn vẹn bài thơ hai mươi câu. Tôi biết Hải Hà còn thuộc vì bài thơ đã được ghi sâu vào tâm trí thiếu nữ, và vui vẻ nhắc lại vì phù hợp với hoàn cảnh hiện tại, đang định cư ở nước ngoài, nhớ nghĩ về quê, về cái tuổi học trò một thuở nào. Lòng tôi thì phải nói là tràn đầy hạnh phúc, khác nào đáy biển mò kim, tự nhiên bỗng có lại chút phần đời đã mất.
Truy tìm Chuyến Đi Dài
Chuyến Đi Dài là bài thơ tôi cùng viết với Vũ Dzũng (Dzũng ký bút hiệu Yên Hà), tưởng tượng một chuyến đi khắp mọi miền đất nước, từ Nam Bộ khởi hành tại Côn Sơn, ra Trung Bộ rồi Bắc Bộ, cuối cùng dừng lại Thăng Long; mỗi nơi đi qua chỉ cô đọng trong một hoặc hai câu, nguyên đăng trên tuần báo Tuổi Xanh, chiếm hai cột dài từ đầu đến cuối trang. Sau ông Bùi Văn Bảo trích một nửa làm bài học thuộc lòng trong Việt Ngữ Tân Thư, cũng phải chia ra hai lần học, hai tuần lễ. Loại thơ nói về đất nước quê hương này dễ tạo được cảm tình của người đọc. Một số là độc giả của Tuổi Xanh, một số là học sinh lớp Nhất từ năm 1961 đến 1974. Trải qua bao cuộc biến thiên, gian nan, cơ cực, nay tương đối thanh nhàn không bận tâm nhiều về nợ áo cơm… người ta chợt nhớ đến học đường, đến văn chương, nhớ đến ông thầy bà cô, quyển sách, tờ báo. Tôi cũng may mắn được cuộc đời chiếu cố, như bài thơ Quê Em trên đây và thỉnh thoảng có người nhắc và hỏi bài Chuyến Đi Dài.
Năm ngoái, tôi nhận được điện thoại của Tăng Nhường ở Đà Nẵng. Anh cho biết ngày trước đã học bài Chuyến Đi Dài, nhiều năm nay muốn biết tác giả, ra sức tìm hiểu mà không rõ tác giả ở đâu, bỗng đọc trên một trang mạng thấy: Trần Huiền Ân tên thật là Trần Sĩ Huệ, hiện sống tại Tuy Hòa. Tăng Nhường hỏi bưu điện Tuy Hòa, có số điện thoại của tôi và gọi cho tôi. Qua giọng nói tôi tin là anh vui mừng thật sự, anh gọi tôi là thầy, dù tôi chưa có một ngày dạy anh. Sách báo có in Chuyến Đi Dài mất hết, nhưng may tôi còn bản chép tay, sao lại gởi tặng Nhường gọi là đáp tình tri kỷ.
Trong khi ấy Nguyễn Đăng Khoa ở Nha Trang, thuộc lớp trẻ, cũng dò tìm Chuyến Đi Dài. Nhường và Khoa gặp nhau trên mạng. Hình như Khoa cũng gốc Quảng Nam, họ dễ thành thân thiết. Khoa cho biết, do một số người trong gia đình, mấy chị lớn, thuộc bài Chuyến Đi Dài, và trong mỗi chuyến đi, đến nơi nào đó, các chị lại đọc câu thơ thích ứng và giải thích cho các cháu.
Đăng Khoa cũng tìm được mấy bài nữa trong Tân Việt Văn gởi cho Tăng Nhường đăng trên trang mạng của cựu học sinh trường Đông Giang (Đà Nẵng), như bài Mùa Ly Biệt viết về nghỉ hè, bài Tranh Đấu Sử nhắc lại những gương sáng người xưa chống Tàu.
Nhìn lại dung nhan Tân Việt Văn
Gần đây, trên một trang mạng Sách Xưa nhìn lại được dung nhan Tân Việt Văn lớp Nhất và lớp Nhì, tôi mới có dữ liệu để viết phần trên.
Không phải là loại ấn bản đầu tiên (đầu năm 1964), cuốn Tân Việt Văn lớp Nhất phát hành ngày 07-4-1967, giá bán 60 đồng. Bìa in hai màu, bên trái màu xám đậm, ba chữ Tân Việt Văn in thành ba dòng, bên phải màu vàng, rộng hơn, hình vẽ hai học sinh đang mở sách. Bên trong, một số trang có nét chữ ghi “tư thục Tài Hoa”, có lẽ sách được một giáo viên trường này sử dụng. Nhiều số trang ghi ngày giảng dạy, bắt đầu là ngày 14-7-1969. Hồi ấy các trường tư nghỉ hè ít, khai giảng sớm. Từ tiểu học lên trung học, các em thi vào Đệ Thất (nay là Lớp Sáu) công lập xong là đi học các trường tư. Khi có kết quả, nếu đậu thì qua trường công, không đậu thì tiếp tục học trường tư, không bị thiếu chương trình.


Cuốn Tân Việt Văn lớp Bốn (lúc này không gọi là lớp Nhì nữa) phát hành ngày 20-02-1974, giá bán 400 đồng. Qua bảy năm, giá cả tăng lên trên sáu lần! Bìa chỉ khác chữ tên lớp và màu xanh tươi thay cho màu xám đậm. Nơi góc trang bìa trong ghi Phạm Kim Phụng, chữ đẹp, ký tên, và khuôn dấu in ba hàng: “Tủ sách Nguyễn Trọng Tuấn. An Dân. Tân Tạo. An Túc. 22.03.1975” (có lẽ là ngày gia đình này kiểm kê sách?). Bên trên trang Lời Nói Đầu viết: Cả tuổi thơ và hình bóng cô giáo Lê Thị Thu H… ở trong quyển sách này. Xin nhớ mấy cô giáo thân yêu và bạn bè của một thời. Sg 23.10.2010. (Chữ ký). Tên cô giáo, sau chữ H… bị nhòa mất, không đọc được. Chắc chắn cuốn sách này của học sinh dùng. Niên khóa 1974-1975 vào học lớp Bốn, chín tuổi, vậy năm 2010 nhớ lại cô giáo thân yêu và bạn bè một thời là bốn mươi lăm tuổi. Người này đã thành đạt tới đâu hay phải chịu nhiều lao đao lận đận của mười lăm năm ấy? Nào biết hỏi ai!
Tôi cũng nhìn lại được trang bìa hai cuốn Việt Ngữ Tân Thư lớp Nhất (sau gọi là lớp Năm) nền màu cam, lớp Hai nền màu xám đậm, có hình bản đồ Việt Nam và hàng chữ Nhật tân, nhật nhật tân đóng khung.
Lời cảm ơn chân thành
Viết những dòng này, tôi muốn nói lời chân thành cảm ơn với vị cựu giáo viên tư thục Tài Hoa, cựu học sinh Phạm Kim Phụng, gia đình Nguyễn Trọng Tuấn, đã sử dụng sách một cách thiết thực và trân trọng, Kim Phụng đã gởi gắm vào đó cả tuổi thơ và hình bóng cô giáo thân yêu và bạn bè, cảm ơn người sưu tầm sách xưa đưa lên mạng, người chủ trang mạng.
Nói vể những người biên soạn Tân Việt Văn thì: ông Bảo Vân (Bùi Văn Bảo) ở Canada vẫn tích cực cổ xúy con em người Việt học tiếng Việt, có dự định xuất bản một quyển Địa Lý Việt Nam, gồm những điểm chính yếu, cụ thể về đất nước, quê hương; tôi có giúp ông sưu tầm tư liệu, rất tiếc sách chưa xong thì ông qua đời. Các ông Bùi Quang Minh, Chu Đức Nhuận, Nguyễn Mạnh Tuân, Huỳnh Phú Nhiều tôi không có tin tức; anh Lê Tất Điều ở Mỹ, có sách tái bản ở Việt Nam và được độc giả bình chọn sách hay; anh Khánh Linh thì vẫn ở Tuy Hòa.
Bốn mươi năm, thời gian không lâu, mà biết bao thay đổi, nhưng cũng có những cái còn lại cho mỗi người.
TÁI BÚT (đôi điều nói thêm):
* Ngày 08-01-2015 Tăng Nhường chuyển cho tôi email của Trần Thị Thanh (sau khi tìm được bài Chuyến Đi Dài trên mạng của cựu học sinh trường Đông Giang) như sau:
 Tôi là người Sài Gòn, cũng đã học bài Chuyến Đi Dài những năm tiểu học, và tôi cũng rất yêu thích bài này. Trải qua năm mươi năm, mỗi năm rơi rụng vài câu, tôi đã quên gần hết bài, chỉ còn nhớ ít câu, muốn tìm lại bài thơ mình yêu thích, chồng tôi đề nghị lên mạng tìm thử. Thật là hay, chỉ gõ “Rừng Ban Mê suối đờn nai khẽ bước” thì cả một bài thơ xuất hiện trước mắt. Cảm ơn tác giả bài thơ, cảm ơn các bạn yêu thích bài này đã đăng cả bài thơ và những thông tin thật hay liên quan đến bài thơ. Thật là vui khi được đọc lại cả bài thơ mình yêu thích. Cảm ơn tất cả. Thanh.
* Ngày 15-7-2016, Ngô Như Liễu ở Sài Gòn trước có học bài Chuyến Đi Dài, nhân dịp ra Tuy Hòa tìm đến thăm tôi. Trong máy của Liễu còn lưu bài thơ đầy đủ. Liễu viết trong sổ ghi của tôi:
Ngày 15-7-2016
Em Ngô Như Liễu, số ĐT 0903777xxx. Thật sự hơn bốn mươi năm từ ngày còn học bậc tiểu học em rất hâm mộ và ao ước một lần được gặp gỡ tác giả bài học thuộc lòng CHUYẾN ĐI DÀI và ngày hôm nay đã hân hạnh gặp thầy, em rất vui và hạnh phúc. Chuyến Đi Dài, một bài học thuộc lòng đã in sâu vào ký ức của cô học trò thuở nào. Từng chữ, từng dòng thơ của thầy in đậm và theo dem mãi mãi.
Hạnh phúc quá khi gặp gỡ thầy và cả cô. Em thành thật cầu chúc thầy cô sức khỏe và hạnh phúc mãi mãi.
Kính thầy cô.
(ký tên)
* Thỉnh thoảng tôi có lướt qua các trang mạng. Mới đây trên trang KỶ NIỆM NGÀY XANH thấy có bài Tiếng Mẹ của tôi trong sách Tân Việt Văn lớp Nhất (lớp Năm), với những lời bình luận dành cho tác giả và sách Tân Việt Văn nhiều cảm tình:
- Năm mươi mấy năm trời nay mới gặp lại. Đọc chưa hết bài mà nước mắt tự dưng trào ra. Không hiểu tại sao là như vậy. Không lẽ mình bị bệnh trầm cảm rồi sao! (Phan Xuân Sơn)
Nghe mẹ cứ nói cuốn Tân Việt Văn hay lắm, ai cũng truyền tay nhau đọc. Giờ mới biết là sách giáo khoa tiểu học thời Việt Nam Cộng Hòa (Ngọc Minh Nguyễn).
- Chúng tôi đã học sách này vào niên khóa 1967-1968 lớp Nhất trường tiểu học Nguyễn Công Trứ ở đường Tôn Thất Thuyết, thị xã Ban Mê Thuột, tỉnh DarLac. (Đào Tuấn Sơn)
- Mỗi trang sách của thời ấy đã in sâu vào ký ức của chúng ta. (Đỗ Minh Nguyệt)
Bao nhiêu năm rồi đọc lại vẫn thấy hay. (Pansy Nguyen)
Đọc để nhớ về qua khứ. (Thi Loi Nguyen)
Quá tuyệt vời! (Du Bai)

TRẦN HUIỀN ÂN




Đạo Uyển chú:
([1]) Tình Nghĩa Giáo Khoa Thư, truyện ngắn của Sơn Nam (1926-2008), in trong Hương Rừng Cà Mau (Sài Gòn: Nxb Phù Sa, 1962).
([2]) Các chi tiết trong dấu [. . .] do Đạo Uyển thêm vào.
([3]) Nguyên tác tiếng Ý (Cuore) của Edmondo de Amicis (1846-1908), xuất bản ngày 17-10-1886 nhằm ngày tựu trường ở Ý. Hà Mai Anh (1905-1975) dịch từ bản tiếng Pháp (Grand Coeurs), được giải văn chương của Hội Alexandre de Rhodes (Hà Nội, 1943).
([4]) Lớp Nhất, Nhì, Ba, Tư, Năm (bậc tiểu học) ngày nay là lớp Năm, Bốn, Ba, Hai, Một.