VỀ NGÔI CHÙA ÔNG Ở THƯƠNG
CẢNG CỔ THANH HÀ (HUẾ)
NGUYỄN ANH HUY *
Ở bài
“Về Địa Danh Chùa Ông Ở Huế”,([1]) tôi đã có dịp giới
thiệu ngôi chùa Ông do chúa Nguyễn thành lập ở Huế, và điểm danh các ngôi chùa
thờ Ông trên địa bàn Huế. Do tục thờ Ông xuất phát từ người Minh (Trung Quốc), nên
không thể không nhắc đến sự thành lập “Đại Minh khách phố” là những phố người
Tàu trong đó thường có những ngôi chùa Ông do chính Hoa kiều thành lập...
Về sự
ra đời của phố cảng Thanh Hà ở Thuận Hóa, năm
1943, học giả Đào Duy Anh cho biết: “Le dépouillement
des archives communales nous a permis de découvrir la copie d’une requête datée
de la 7e année de la période Bảo Thái des Lê (1726) où on peut lire
le passage suivant: ‘Le seigneur Thượng Vương, après avoir fixé la capitale à
Kim Long, a octroyé par ordonnance à nos ancêtres un terrain situé dans le
village de Thanh Hà, et empiétant sur le domaine du village de Địa Linh, pour
établir un quartier de commerce’...”.([2]) Điều phát hiện này của Đào Duy Anh cho thấy vùng đất
Thanh Hà - Minh Hương ở Thừa Thiên - Huế,
thật sự phát triển thành thương cảng sau khi chúa Nguyễn Phúc Lan di dời thủ phủ
Đàng Trong từ Phước Yên đến Kim Long vào tháng 12-1635, mà Giáo Sư Chen Ching
Ho (Trần Kinh Hòa) cũng dựa vào đó để cho rằng thương cảng cổ này ra đời “có lẽ là năm 1636”.([3])
Năm 1644, tại Trung Quốc, nước Đại Thanh chiếm diệt nước Đại
Minh, và đến năm 1662 thì nước Đại Minh bị mất hoàn toàn.([4])
Trong hoàn cảnh mất nước, các thần dân Đại Minh, vì muốn khôi phục tiên triều,
họ lại càng đề cao hình tượng Quan Công trung nghĩa với Đại Hán để ví von và
ngầm khơi dậy lòng trung nghĩa của người Hán chống lại Mãn Thanh. Một số trung
thần triều Minh không chấp nhận sự đô hộ của ngoại tộc, phần lớn rời bỏ Trung
Quốc ly hương đến các nước Đông Nam Á, trong đó có Thuận Hóa ở Đại Việt để sinh
sống.
Do thương cảng Thanh Hà (Thuận Hóa) được thành lập trước năm
1662, nên Hoa kiều ở đó gọi phố này là “Đại
Minh khách phố”, mà mãi đến năm 1695, Thích Đại Sán đến Thuận Hóa vẫn còn
nghe: “Vừa
rồi xưng Trung Hoa làm ĐẠI MINH, người ấy chỉ biết tiên triều, cũng như các phụ
lão ở Đào Nguyên, chỉ biết có nhà Tần vậy.” ([5])
Vì việc thờ Quan Thánh xuất phát từ người Trung Quốc, nên các phố Hoa kiều
thường có các miếu thờ ngài, và được người Việt chấp nhận thờ trong
chùa, vì theo truyền thuyết trong Tam
Quốc Diễn Nghĩa, ngài đã quy y với thiền sư Phổ Tĩnh, ngộ lý “sắc sắc không không” khi đầu rời khỏi
cổ. Tuy nhiên phần lớn ngài được thờ chỉ với một án thờ trong các chùa Phật.
Đối với người Trung Quốc thì hình tượng của ngài lớn hơn, nên thường được lập
đền thờ riêng gọi là 關 公 祠 Quan Công Từ, hoặc 關 聖 廟 Quan Thánh Miếu..., mà người Việt gọi là chùa Ông.
Ở
đây, tôi muốn giới thiệu về ngôi chùa Ông ở làng Địa Linh (Thừa Thiên - Huế) mà từ trước đến nay hầu như chưa được
tìm hiểu sâu... ([6])
I. MÔ
TẢ NGÔI CHÙA HIỆN NAY
Về ngôi chùa Ông này, sử chỉ
chép đơn giản: “Đền Quan Công: Ở xã Địa
Linh. Năm Minh Mạng thứ 12 (1831), trùng tu, vua ban cho tấm biển đồng. Năm Tự
Đức thứ 3 (1850), ban cho tấm biển gỗ thiếp vàng.” ([7])
Tuy nhiên, nếu đến khảo sát trực
tiếp tại di tích này, ta sẽ được biết lịch sử xa xưa hơn...
Qua khỏi cống của khu phố cổ
Bao Vinh (Huế) là đường Địa Linh; đi tiếp khoảng năm trăm mét, phía bên trái có
cổng tam quan với biển tên 關聖殿 Quan Thánh Điện (Hình 1), niên đại của cổng này xây năm Bính Ngọ (1966).
Hai bên trụ cổng có câu đối: 直 將 忠 義 師 千 古 / 無 論 英 雄 敵 萬 人
Trực tương trung nghĩa sư thiên cổ,
Vô luận anh hùng địch vạn nhân.
- Vào trong cổng, phía bên trái điện thờ
(nhìn từ trong ra), có bia đá làm năm 1861 (Hình 2) ghi:
Nguyên văn chữ Hán:([8])
都 城 西 北 關 公 祠 在 焉 前 臨 香 江 御 舟 巡 幸 所 經 過 道 也 精 爽 肸 蠁 廟 貌 有 嚴 明 命 辛 卯 欽 奉 聖 製 詩 一 首
宸 文 睿 藻
金 板 煌 煌
心 燭 之 光
千 古 常 見
二 十 一 年 再 奉 修 補
嗣 德 庚 戌 又 奉 御 製 詩 一 首 準 之 裝 額 以 繼 其 盛 辛 酉 春 特 命 京 尹 臣 重 修 徂 夏 畢 工 堂 廡 五 垣 牆 表 柱 殖 殖 然 噲 噲 然 有 侐 之 瞻 儼 如 也 惟 公 忠 義 正 氣 塞 乎 天 地 間 壯 哉 崇 祠 榮 哉 褒 袞 為 此 江 山 增 色 其 所 以 佑 我 有 民 為 世 世 忠 臣 烈 士 勸 皆 於 是 乎 在 豈 僅 皇 州 一 壯 觀 已 哉 爰 書 以 誌
嗣 德 十 四 年 五 月 初 十 日
敕 恭 記
太 僕 寺 卿
領 承 天 府 府 尹 潘 廷 選 奉
Phiên
âm Hán Việt:
Đô thành Tây Bắc, Quan Công từ tại yên. Tiền lâm
Hương Giang, ngự chu tuần hạnh sở kinh quá đạo dã. Tinh sảng hật hưởng miếu mạo
hữu nghiêm, Minh Mệnh Tân Mão khâm phụng thánh chế thi nhất thủ.
Thần văn duệ tảo
Kim bản hoàng hoàng
Tâm chúc chi quang
Thiên cổ thường kiến
Nhị thập nhất niên tái phụng tu bổ.
Tự Đức Canh Tuất hựu phụng ngự chế thi nhất thủ,
chuẩn chi trang ngạch dĩ kế kỳ thịnh. Tân Dậu xuân đặc mệnh kinh doãn thần trùng
tu, tồ hạ tất công. Đường vũ ngũ viên tường biểu trụ thực thực nhiên, khoái
khoái nhiên, hữu tuất chi chiêm nghiễm như dã. Duy công trung nghĩa chính khí tắc
hồ thiên địa gian, tráng tai sùng từ, vinh tai bao cổn, vị thử giang sơn tăng sắc,
kỳ sở dĩ hựu ngã hữu dân vi thế thế trung thần liệt sĩ, khuyến giai ư thị hồ tại,
khởi cận hoàng châu nhất tráng quan dĩ tai. Viên thư dĩ chí.
Tự Đức thập tứ niên ngũ nguyệt sơ thập nhật sắc
cung ký.
Thái Bộc Tự Khanh lĩnh Thừa Thiên phủ Phủ Doãn Phan
Đình Tuyển phụng.
Dịch
nghĩa:
Phía
Tây Bắc đô thành, có đền Quan Công, phía trước sát sông Hương, là đường đi
ngang qua của thuyền ngự đi tuần. Sáng sủa hưng vượng, miếu mạo nghiêm trang.
Năm Tân Mão (1831) triều Minh Mệnh kính được ban một bài thơ ngự chế. Văn của
vua tươi đẹp, bảng vàng rờ rõ, ngọn đuốc tâm hồn sáng tỏ, ngàn đời vẫn còn thấy
rõ.
Năm
thứ 21 (1840) lại kính tu bổ. Năm Tự Đức Canh Tuất lại kính được ban một bài
thơ ngự chế, chuẩn cho sơn son biển ngạch, để nối tiếp sự thịnh vượng.
Mùa
xuân năm Tân Dậu (1861), đặc sai quan Kinh Doãn trùng tu. Qua mùa hạ thì hoàn tất.
Nhà chính và nhà bên năm ngôi, tường thành, trụ biểu lớp lớp, sáng sủa thay,
chiêm ngưỡng nghiêm trang vậy.
Kính
nghĩ: Ngài trung nghĩa, chính khí lấp đầy khoảng trời đất. Hùng tráng thay đền
thờ cao quý. Vẻ vang thay việc tặng phong, vì thế non sông rạng vẻ, cốt để giúp
đỡ dân ta làm nên kẻ trung thần liệt sĩ, khuyến khích đều được như thế. Há dè sẻn
gì với một cảnh quan ở kinh đô, bèn viết để ghi lại.
Tự
Đức năm thứ 14 ngày 10 tháng 5 năm 1861
Sắc
cho kính ghi
Thái
Bộc Tự Khanh lãnh Phủ Doãn phủ Thừa Thiên
Phan
Đình Tuyển kính.
- Phía trước điện thờ, có đỉnh sắt
(Hình 3) ghi:
廣 東 廣 州 府 宜 義 沐 恩 眾 信 弟 子 黎 日 光 洪 奕 鼎 崔 淑 衡 伍 協 和 羅 春 仁 伍 卿 垣 吳 恒 豐 吳 連 祥 虔 具 龍 亭 一 座 重 柒 佰 觔 敬 在 觀 音 娘 娘 關 聖 帝 君 殿 前 永 遠 供 奉 乾 隆 四 十 五 年 歲 次 庚 子 孟 春 吉 旦 立 隆 盛 炉 造
Quảng
Đông Quảng Châu phủ Nghi Nghĩa mộc ân chúng tín đệ tử Lê Nhật Quang, Hồng Dịch
Đỉnh, Thôi Thục Hành, Ngũ Hiệp Hòa, La Xuân Nhân, Ngũ Khanh Viên, Ngô Hằng
Phong, Ngô Liên Tường kiền cụ long đình nhất tọa trọng thất bách cân kính tại Quan Âm Nương
Nương, Quan Thánh Đế Quân điện tiền, vĩnh viễn cung phụng. Càn Long tứ thập ngũ
niên tuế thứ Canh Tý mạnh xuân cát đán lập, Long Thịnh lô tạo.
Dịch nghĩa
Các đệ tử đội ơn [Quan Thánh] ở Nghi Nghĩa, phủ Quảng Châu,
Quảng Đông là Lê Nhật Quang, Hồng Dịch Đỉnh, Thôi Thục Hành, Ngũ Hiệp Hòa, La Xuân
Nhân, Ngũ Khanh Viên, Ngô Hằng Phong, Ngô Liên Tường kính dâng vĩnh viễn một bảo đỉnh nặng bảy trăm cân làm tại
lò Long Thịnh, đặt tại tiền điện của Quan Âm Nương Nương và Quan Thánh Đế Quân vào
ngày tốt tháng giêng năm Canh Tý, Càn Long thứ 45 (1780).
- Trong chính
điện, ngoại trừ hoành phi 浩氣凌霄 Hạo Khí Lăng Tiêu (Hình 4) do các hội quán Quảng Triệu, Triều Châu, Hải Nam tặng nhân dịp
trùng kiến đền thờ mùa thu năm Giáp Thìn (1964), còn có một câu đối cổ (Hình
5a, 5b), rất đáng lưu ý về niên đại Long phi
Kỷ Tỵ:
義 氣 壯 山 河 全 賴 聖 恩 普 照
Nghĩa khí tráng sơn hà toàn
lại thánh ân phổ chiếu,
精 忠 同 日 月 深 荷 帝 力 回 春
Tinh trung đồng nhật nguyệt,
thâm hạ đế lực hồi xuân.
龍 飛 己 巳 年 , 沐 恩 第 子 石 彩 記 敬 奉
Long phi Kỷ Tỵ niên, Mộc ân đệ tử Thạch Thái Ký kính
phụng.
Về giai tự 龍 飛 Long phi ([9]) phối hợp với thiên
vận can chi, ta gặp phần lớn ở các di tích của người Minh (Trung Quốc) lánh nạn
Mãn Thanh sang Việt Nam, như các mộ Hoa kiều ở Hội An có
ghi “Long phi Bính Tý” (1696), hoặc “Long phi tuế thứ Giáp Tuất”
(1694).([10]) Do tại Đại Việt thời ấy, ở Đàng Trong tuy là một quốc gia độc lập
nhưng chưa có chính sóc rõ ràng, chỗ thì dùng niên hiệu vua Lê, chỗ thì dùng
thiên vận can chi, không thống nhất. Nếu ở Trung Quốc còn triều Đại Minh
(1368-1662), thì các thương khách Trung Quốc tại Đại Việt cũng chỉ sử dụng
chính sóc triều Minh như từ đường họ Lâm ở Hội An (nhà số 20, đường Trần Phú),
bức hoành có dùng quốc hiệu 大 明 天 啟 Đại Minh Thiên Khải. Do vậy, cách sử dụng giai tự “Long phi” phải
sau khi nước Đại Minh bị mất hoàn toàn vào năm 1662. Mặt khác, tại Việt Nam,
sau khi Nguyễn Vương Phúc Ánh nhất thống từ Gia Định đến Thăng Long để đặt niên
hiệu Gia Long, thì các cơ sở của người Hoa cũng bắt đầu dùng chính sóc của vua
Nguyễn, vì ngay phía sau đền thờ Quan Thánh ở Thanh Hà (Huế), hiện vẫn còn 關 帝 廟 鐘
Quan Đế Miếu
Chung ghi niên đại Gia Long tam
niên tuế thứ Giáp Tý (1804).
Do đó, cách sử dụng giai tự “Long phi” (Hình 6) phối hợp với can chi chỉ xảy ra trong khoảng 1662-1802. Và Kỷ
Tỵ ở câu đối trong đền thờ Quan Công này, chỉ có thể là năm 1689 hoặc 1749.
Ở
đây, ta cần đặt lại vấn đề là tuy thương cảng Thanh Hà ra đời khoảng năm 1636
vì có bản văn với nội dung “Thượng Vương
sau khi định vị thủ phủ ở Kim Long, đã ra văn bản cấp cho tổ tiên chúng tôi một
vùng đất ở làng Thanh Hà, có ăn qua địa phận làng Địa Linh để làm khu vực buôn
bán”, nhưng kỳ thực để ở đây trở thành là khu phố của người Hoa kiều ở để
xây thêm các miếu thờ tín ngưỡng, thì còn có thêm các chứng cứ về việc lập phố
Thanh Hà:
- Trong một lá đơn trình quan làm năm 1754, có nói rằng “Tiền triều ra ơn, có lấy đất
đồn tại hai xã Thanh Hà, Địa Linh, cho lập phố 1 mẫu 5 thước 4 tấc ; năm Thịnh
Đức thứ 6 (1658), đã biên số đất phố ấy vào sổ hiện canh... ” ([11])
- “...
theo bộ canh (bộ điền thổ) năm Cảnh Trị thứ 7 (1669), đất phố (Thanh Hà) bây giờ
đã mở rộng thêm đến 7 mẫu 5 sào 8 thước 2 tấc ; trong số ấy, 6 mẫu 3 sào 3 thước
ở trong địa giới xã Thanh Hà, còn bao nhiêu thuộc xã Địa Linh. Về sau, thương
kiều lại mua thêm được trên bờ sông 4 mẫu 1 sào 3 thước, đất của xã Địa Linh để
cất thêm phố buôn bán; do đó, đủ thấy phố Thanh Hà phát triển hướng về thành
Thuận Hóa...” ([12])
Một điều đáng bàn nữa, về tín
ngưỡng dân gian, nhất là tín ngưỡng ngoại nhập như tục thờ Quan Thánh, thì thường
xuất hiện trong dân gian trước, sau đó triều đình / nhà nước mới công nhận, sắc
phong sau. Mà ta đã biết Minh Vương Nguyễn Phúc Chu từ khi lên ngôi năm 1691,
đã có các hoạt động tôn giáo sau:
Rồi đến năm Giáp Ngọ (1714), khi
ngự kiến Thiên Mụ Tự để tạo một trung tâm tôn giáo của xứ Đàng Trong ở đồi Hà
Khê, Minh Vương còn cho xây Quan Công Từ bên trái chùa Thiên Mụ, và chính Vương
đích thân ngự đề bức 忠 義 之 則 Trung Nghĩa Chi Tắc (tấm gương trung nghĩa) ([15])
để treo vào đền thờ.
Như
vậy, đền thờ Quan Công ở Thanh Hà, do dân gian xây dựng, phải xuất hiện trước đền
thờ do triều đình xây, tức năm 1714. Và như thế, năm
Kỷ Tỵ, niên đại ở ngôi chùa Ông này là năm 1689, thì lại rất phù hợp với công
việc phong thần của chúa Nguyễn Phúc Thái: “Kỷ Tỵ, năm thứ hai [1689]… Mùa hạ, tháng 5… Gia phong các vị linh thần
trong cõi”, ([16]) mà từ trước đó đã: “[1687]
Mùa hạ, tháng 4, phong sắc cho các vị linh thần trong cõi”,([17])
mà trước đó có cả sắc phong cho Quan Thánh.([18])
Phía sau điện thờ Quan Thánh ở làng Địa Linh hiện
nay, có ngôi điện khác gồm hai tầng, có 關帝廟鐘 Quan Đế Miếu Chung như đã nói ở trước, nhưng lại thờ Phật, tên là Linh Quang Tự, có kiến trúc
rất lạ mà tôi sẽ trình bày ở phần sau...
II. KIẾN
TRÚC NGÀY XƯA
Các nhà nghiên cứu hiện nay, do tìm hiểu
không đến nơi đến chốn, nên mô tả kiến trúc hiện nay mà không tìm hiểu kiến
trúc ban đầu của đền nên có nhiều thắc mắc:
1. Kiến trúc điện chính
Kiến trúc sư Đỗ Thị Thanh Mai ([19]) mô tả chùa Ông như sau: “Điện chính thờ Quan Công,
phía sau điện chính có một ngôi điện hai tầng thờ Bồ Tát [...]. Điện phụ phía
sau dạng nhà lầu cao hai tầng xây gạch, sàn tầng một đổ bê tông cốt thép. Hai hệ
thống cầu thang xây gạch hai bên đi lên tầng hai... ” ([20])
Đến quan sát tận nơi, ta thấy sự mô tả này tuy đúng với
thực tế hiện nay, nhưng lại không đúng với kiến trúc ban đầu của điện thờ:
Theo ông Lê Kết, người địa phương được giao thủ
từ năm 1963 đến nay vẫn còn ở trong đền thờ, cho biết rằng năm 1946, theo chính
sách tiêu thổ kháng chiến, người ta đã phá ngôi điện này lớn này đi, chỉ còn
lại vài bức tường và nền móng. Sau đó, quân đội chiếm giữ để làm một điểm trấn
sông Hương, đã cải tạo đề thành lô cốt quân sự, đến năm 1963 mới trả cho dân
làng.
Năm
1964, sau khi cộng đồng người Hoa quyên góp tiền, do kinh phí ít, nên không thể
trùng tu ngôi điện cũ, họ chỉ xây ngôi điện mới nhỏ hơn ở vị trí thờ Quan Thánh
hiện nay. Như vậy, “ngôi điện
hai tầng thờ Bồ Tát [...] (tức) điện
phụ phía sau dạng nhà lầu cao hai tầng xây gạch, sàn tầng một đổ bê tông cốt
thép” mới
chính là ngôi điện gốc, kiến trúc cũ ngày xưa để thờ Quan Thánh. Chung quanh điện này hiện vẫn còn dấu vết móng, chu vi của ngôi
điện cũ rất lớn đã sụp đổ...
Trong khuôn viên đền thờ, hiện vẫn còn nhiều viên đá móng
có lỗ để lót trụ cột rất lớn, chứng tỏ có kiến trúc cũ rất to cao ở đây...
Chính hai bức tường hai bên của ngôi đền cũ được ghép bằng
gạch rất dày, đã sập, và đã được cải tạo thành lô cốt quân sự, rồi lại được gỡ
các viên gạch theo lối bậc cấp để tiếp tục cải tạo thành “hai hệ thống cầu thang xây gạch hai bên đi lên tầng hai” như ta thấy hiện nay (Hình 7).
2. Về việc thờ Quan Âm
Giáo
Sư Suenari Michio (nghiên cứu viên thuộc Đông Dương Văn Khố, Nhật Bản) có thắc
mắc: “... sự tồn tại của chùa Linh Quang (người Kinh
xây) đằng sau Quan Thánh Điện. Trong lư bằng sắt có pho tượng Quan Âm niên hiệu
Càn Long. Như vậy, niên đại xây khuôn viên này là cuối thế kỷ XVIII... ” ([21])
Sau
khi xây ngôi điện mới nhỏ hơn để thờ Quan Thánh ở vị trí hiện nay vào năm 1964,
đến năm 1966, người ta cải tạo lại ngôi điện cũ để thờ Phật, đặt tên là Linh
Quang Tự, cho nên mới có “sự tồn tại
của chùa Linh Quang (người Kinh xây) đằng sau Quan Thánh Điện”.
Tuy
vậy, do kiến trúc ban đầu của điện hai tầng này là điện thờ Quan Thánh gốc, nên
trong tầng hai vẫn còn lầu chuông, trong đó vẫn còn 關 帝 廟 鐘 Quan Đế Miếu Chung như đã kể.
Việc
Giáo Sư Suenari Michio viết là “ trong
lư bằng sắt có pho tượng Quan Âm niên hiệu Càn Long” chỉ là một sự hiểu nhầm ngẫu
nhiên vì trong cái lư sắt có ghi câu “tại Quan Âm Nương Nương, Quan
Thánh Đế Quân điện tiền”. Tôi đã có hỏi ông Lê
Kết rằng trước khi xây ngôi điện thờ Quan Thánh mới vào năm 1964, ở khuôn viên
đây có thờ phật Quan Âm không, ông này nói hoàn toàn không có.
Như vậy, việc viết chữ Quan
Âm Nương Nương trên xuất phát từ lò tạo chứ không phải vào thế kỷ XVIII đã
có người Kinh (Việt Nam) thờ Quan Âm ở đây. Hơn nữa, người Việt thì sử dụng từ Quan Âm Bồ Tát chứ không dùng chữ Quan Âm Nương Nương đặc thù như người
Trung Quốc. Vả lại, tín ngưỡng thờ Quan Âm cũng xuất phát từ người Trung Quốc
chứ không phải là tín ngưỡng thuần của người Việt Nam: “(M)ỗi khi nhắc đến Quan Thế Âm Bồ Tát,
chúng ta đều không khỏi ngạc nhiên về người Trung Quốc, đặc biệt những tình
tiết và những điều bí ẩn về Quan Âm của dân tộc Hán, Tạng thì lại càng phong
phú và sâu sắc... Hình ảnh của Quan Thế Âm xuất hiện ở mọi nơi… đã in sâu vào
tâm hồn tất cả người Trung Quốc, từ người già đến trẻ em… từ đó trở thành tín
ngưỡng truyền thống chủ yếu của Trung Quốc. Thời nhà Minh, quyển Tây Du Ký của
Ngô Thừa Ân là điển hình của việc bình dân hóa và nghệ thuật hóa tín ngưỡng này.”
([22])
Do
vậy, cho rằng đền thờ Quan Thánh ở Địa Linh (Huế) là do người Việt xây, trong
đó có thờ cả Quan Âm vào thế kỷ XVIII là một nhận định không chính xác:
-
Nếu đền này do người Việt xây, vì sao không dùng niên đại vua Lê như những nơi
khác, mà lại dùng giai tự Long phi?
-
Nếu đền này do người Việt xây, vì sao lại có đệ tử từ Quảng Đông đến cúng cái đỉnh
bằng sắt?
-
Nếu từ năm 1780 đã có Linh Quang Tự để thờ Quan Âm, vì sao khi đúc chuông năm
1804, không ghi tên chuông là “Linh Quang Tự Chung” mà phải ghi là
關 帝 廟 鐘
Quan
Đế Miếu Chung (Hình 8)?
Và đền thờ Quan Công ở Địa Linh này cũng là một địa danh
quan trọng ở vùng đất Phú Xuân, nên trong bản đồ quân Trịnh vẽ năm 1785 cũng có
ghi địa danh là 關 聖 廟 Quan Thánh Miếu,([23]) chứ không hề ghi
là Linh Quang Tự.
3. Con
đường
Địa Linh xưa và nay
Như trên, ta đã biết là cái cổng 關 聖 殿 Quan Thánh Điện được xây năm 1966, và trước
cổng này hiện nay là con đường mang tên Địa Linh, con đường chính
xuyên suốt cả khu vực Địa Linh - Thanh Hà - Minh Hương này. Phía ngoài đường
Địa Linh hiện nay, sát bờ sông Hương, lại có một cái cổng rất xưa, rêu phong cổ
thụ um tùm, mang tên 關 聖 廟 Quan Thánh Miếu (Hình 9), và cũng có câu đối 直 將 忠 義 師 千 古 / 無 論 英 雄 敵 萬 人 (Trực tương trung nghĩa sư thiên cổ / Vô luận
anh hùng địch vạn nhân.)
Nghĩa là giữa hai cái cổng (một cổng rất xưa và một cổng
mới xây năm 1966) của miếu thờ Quan Thánh, là con đường Địa Linh chạy ngang...
Điều khá lạ là, ta thử tưởng tượng, nếu trước đây chưa có cái cổng 關 聖 殿 Quan
Thánh Điện xây năm 1966, thì con đường Địa Linh hiện nay sẽ chạy xuyên ngang khuôn viên của miếu thờ Quan Thánh,
một điều rất kiêng cữ đối với một ngôi miếu trang nghiêm mà ngay từ xưa “năm
Thái Đức thứ mười triều Tây Sơn (1787), dân xã Địa Linh lấy cớ phố buôn Thanh
Hà ngăn trở cửa đền Quan Công của làng ấy, làm đơn nhờ triều đình Tây Sơn can
thiệp. Nhà đương cuộc Tây Sơn, một mặt vì quyền lợi của các thương kiều, một mặt
tôn trọng việc tôn giáo cấm kỵ của dân xã Địa Linh, xử giao trả đất vùng ấy cho
xã Địa Linh...” ([24])
Đoạn
vừa trích dẫn cho thấy có hai vấn đề đã xảy ra:
1,
Phía trước cổng 關 聖 廟 Quan Thánh Miếu ở bờ sông Hương hiện nay, phải có một con đường khác bên
ngoài khuôn viên của miếu.
2,
Vùng đất thuộc khuôn viên miếu Quan Thánh sau năm 1636 “ở làng Thanh Hà, có ăn qua
địa phận làng Địa Linh để làm khu vực
buôn bán”, đã do Hoa kiều quản lý, đến thời Tây Sơn mới giao lại cho
làng Địa Linh hiện nay.
Năm
1919, R. Morineau mô tả toàn cảnh Thanh Hà
và đền Quan Công như sau: “... Le terrain occupé par toutes ces
constructions s'étendait depuis l'emplacement de la pagode actuelle de Quan
Công, élevée lors de l'érection du village de Minh Hương, jusqu'au sentier de
Thanh Hà, actuellement indiqué par un ponceau servant à l'écoulement des eaux
se déverant des rizières dans l'ancien sentier.” ([25])
Ta được biết làng Minh Hương còn có tên là Phố Lở, nghĩa là khu phố bị sông Hương
xâm thực lần lần, mà từ đầu thế kỷ XX, Morineau đã chứng kiến cảnh bể dâu kể
trên.
Và
ông Lê Kết còn cho biết, đã chứng kiến con đường phía ngoài cổng miếu Quanh
Thánh ở bờ sông đã bị lở dần dần, nên năm 1964, người ta đã làm con đường Địa
Linh mới phía trong như hiện nay, và năm 1966 thì xây lại cổng 關 聖 殿 Quan Thánh Điện phía trong con đường mới.
III. THAY CHO LỜI KẾT
Ta được biết thương cảng cổ
Thanh Hà (Địa Linh, Hương Vinh) có lẽ hình thành vào năm 1636 và từ đó hình
thành khu Hoa kiều đô hội ở đây. Để đánh dấu sự ổn định khu Hoa kiều ở Thanh
Hà, năm 1689, họ đã xây ranh giới phía bắc khu này là Thiên Hậu Cung ([26]) và phía nam là
Quan Thánh Miếu để hàng năm cúng tế theo tín ngưỡng của người Hoa.
Đầu thế kỷ XIX, cảng Thanh
Hà suy tàn, khu Hoa kiều được dời lần lên phố Chợ Dinh (tức đường Chi Lăng ngày
nay). Việc cúng tế tại đền Quan Thánh ở Minh Hương - Thanh Hà có phần xa xôi
khó khăn. Do vậy, vua Thiệu Trị đã cho dời đền Quan Công ([27]) được chúa Nguyễn
Phúc Chu xây từ năm 1714 từ chùa Thiên Mụ về bên cạnh Diệu Đế Quốc Tự để vừa biểu
hiện khu vực này là trung tâm tôn giáo mới của nước Đại Nam, vừa thuận tiện cho
Hoa kiều ở phố Chợ Dinh đến làm lễ:
Đất Thần Kinh trai
hiền, gái lịch,
Non xanh nước biếc,
điện ngọc, đền rồng,
Tháp bảy tầng, Thánh Miếu,
chùa Ông,
Chuông khua Diệu Đế, trống rung Tam Tòa...
Kim
Long Thư Hương Các, Phật Đản 2018.
NGUYỄN
ANH HUY
([1]) Nguyễn Anh Huy, “Về Địa Danh Chùa Ông Ở Huế”, Đại Đạo Văn Uyển, Tập Lợi (11). Hà Nội:
Nxb Tôn Giáo, 2014, tr. 109-121.
([2]) Đào
Duy Anh, “Phố Lỡ, première colonie Chinoise du Thừa Thiên”, B.A.V.H., XXXe Année, No 3,
Juin-Septembre, 1943, tr. 250. Nghĩa
là: Việc sưu tầm và nghiên cứu các văn bản làng xã cho phép phát hiện bản sao
một tờ đơn năm 1726 với nội dung: “Thượng
Vương sau khi định vị thủ phủ ở Kim Long, đã ra văn bản cấp cho tổ tiên chúng
tôi một vùng đất ở làng Thanh Hà, có ăn qua địa phận làng Địa Linh để làm khu
vực buôn bán.”
([3]) Trần Kinh Hòa, “Làng Minh
Hương Và Phố Thanh Hà Thuộc Tỉnh Thừa Thiên”, Đại Học, tạp chí nghiên cứu của Viện Đại Học Huế, số 3, Năm thứ IV,
tháng 7-1961, tr. 101. Nhiều nhà nghiên cứu sau này khẳng định rằng thương cảng
Thanh Hà (Huế) ra đời chính xác vào năm 1636, nhưng không trình bày được một
chứng cứ cụ thể nào về niên đại 1636, nên cũng chỉ dựa vào suy luận phỏng đoán
về mặt thời gian từ một bản sao tờ đơn kể lại câu chuyện gần một trăm năm về
trước này của Giáo Sư Trần Kinh Hòa, như vậy là thiếu chính xác về phương pháp
luận sử học. Kể từ năm 1961 đến nay, đã có nhiều bài viết làng Minh Hương và
phố Thanh Hà, nhưng vẫn chưa có bài viết nào vượt được bài này của Giáo Sư Trần
Kinh Hòa về mặt phương pháp luận sử học, như cách sử dụng tài liệu tham khảo,
công bố nội dung mới, tư liệu mới, hoặc suy luận mới, nhận định sử học mới...
([4]) Sau năm 1644 một số thân vương của triều Minh
như Phúc Vương, Đường Vương, Quế Vương đã xưng đế để tìm cách phản Thanh phục
Minh; năm 1646, Quế Vương lấy niên hiệu Vĩnh Lịch, xưng đế ở miền Nam Trung
Quốc, các nhà sử học sau này gọi là “Hậu Minh” hoặc “Nam Minh”, nhưng quốc hiệu
chính thức vẫn là Đại Minh, đến năm 1662 thì bị diệt, triều Minh bị mất hoàn
toàn.
([6]) Điều mà tôi thắc mắc về bài viết của GS Trần
Kinh Hòa, không hiểu vì sao giáo sư không đề cập gì đến ngôi miếu Quan Thánh ở
làng Địa Linh, cũng là một di tích quan trọng của Hoa kiều. Phải chăng giáo sư
cho rằng miếu này là ở làng Địa Linh của người Việt, trong khi giáo sư chỉ
nghiên cứu về “làng Minh Hương và phố Thanh Hà” của Hoa kiều? Tuy nhiên, chúng
ta đã thấy có văn bản cho biết rằng Hoa kiều “ở làng Thanh Hà, có ăn qua địa phận làng
Địa Linh để làm khu vực buôn bán”, như vậy, rõ ràng miếu Quan
Thánh ở làng Địa Linh cũng rất cần được bổ túc vào việc nghiên cứu “Làng Minh
Hương và phố Thanh Hà thuộc tỉnh Thừa Thiên”.
([9])
Thiều Chửu, Hán Việt Tự Điển. Nxb Văn
Hóa Thông Tin, 2002, tr. 731, giải thích: “Long:
... Lại dùng để ví với ông vua, cho nên vua lên ngôi vua gọi là long phi.”
Nhưng thực tế, các năm “Long phi” được dùng trên các di tích chúng tôi chứng
kiến được, không phải năm “Long phi” nào cũng trùng với việc vua lên ngôi, do
vậy, không thể gán ghép với việc năm có giai tự “Long phi” chính là năm một vị
vua nào đó lên ngôi được.
([18]) Hiện
tại chùa Ông ở Hội An còn bức sắc phong Quan Thánh của chúa Nguyễn Phúc Tần vào
năm 1653: “敕 封 : 三 界 伏 魔 大 帝 , 神 威 遠 震 天 尊 . 慶 德 癸 巳 年 季 冬 穀 旦 書 , 明 香 員 官 各 職 全 社 立 .
Sắc phong: Tam Giới Phục Ma Đại Đế, Thần Uy
Viễn Chấn Thiên Tôn. Khánh Đức Quý Tỵ niên, quý đông, cốc đán thư. Minh Hương,
viên quan các chức toàn xã lập.” Có dịp, tôi sẽ tiếp tục giới thiệu ngôi chùa
Ông ở Hội An, để các bạn thấy sự quan tâm của chúa Nguyễn đối với tín ngưỡng của
Hoa kiều.
([21]) Bộ
Giáo Dục, Văn Hóa, Thể Thao, Khoa Học Và Công Nghệ Nhật Bản - Chương Trình COE Toàn
Cầu - Viện Nghiên Cứu Tương Tác Văn Hóa - Đại Học Kansai & Khoa Lịch Sử, trường
Đại Học Khoa Học Huế, Việt Nam, Văn Hóa -
Lịch Sử Huế Qua Góc Nhìn Làng Xã Phụ Cận Và Quan Hệ Với Bên Ngoài. Huế: Nxb
Thuận Hóa, 2010, tr. 123, chú thích số 15.
([25]) R. Morineau, “Souvenirs historiques en aval de Bao Vinh: 1,
Phố Lở ou Minh Hương et les maisons de Vannier et de De Forsans”, B.A.V.H., 6e Année No 4, Oct-Déc1919, tr. 454. Tạm hiểu:
Đất phố mà trên đó gồm các công trình kiến
trúc kéo dài từ đền thờ Quan Công dựng lên khi làng Minh Hương mới hình thành đến
tận con đường Thanh Hà, hiện nay chỉ dẫn bằng một cống cho dòng chảy đổ vào các ruộng
lúa trong con đường mòn cũ.
([26]) Hiện tại ở Thiên Hậu Cung (ở làng Minh Hương,
xã Hương Vinh, huyện Hương Trà) có tấm bia bằng đá mới khắc bằng tiếng Việt để
giới thiệu cung này “xây dựng đầu tiên
vào năm 1685 về triều Lê năm Chánh Hòa thứ sáu Ất Sửu…”. Tôi cho rằng việc
khắc tấm bia khẳng định năm xây dựng là 1685 này sẽ gây sai lệch về lịch sử,
nên gỡ bỏ, vì không có một chứng cứ cụ thể nào về mặt niên đại xây dựng Thiên
Hậu Cung chính xác vào năm 1685. Xét ra, trong bài của Giáo Sư Trần Kinh Hòa đã
giới thiệu, cho biết các văn bản có liên quan đến Thiên Hậu Cung chỉ còn duy
nhất một tờ đơn trình quan vào năm Minh Mạng thứ 16 (1835) có ghi: “Nguyên các Hoa thương dâng cung Thiên Hậu
trên địa phận bản xã, trải qua 150 năm nay.” Người ta đã dựa vào năm của tờ
đơn (1835) để tính lui 150 năm, tức năm 1685, lấy làm năm xây dựng Thiên Hậu
Cung. Về con số 150 năm trong tờ đơn, chỉ là một cách nói ước lệ, sai số có thể
trên dưới mười năm, cho nên, năm 1685 chỉ là một phỏng đoán và nên viết là
“Thiên Hậu Cung có lẽ xây dựng vào khoảng những năm 1685”, chứ không thể khẳng
định chính xác là “xây dựng vào năm 1685” được. Dựa vào các chứng cứ sử học đã
trình bày trên, tôi cho rằng, có lẽ Thiên Hậu Cung cũng được xây dựng vào năm
1689 cùng lần với miếu Quan Thánh, vì hoàn toàn phù hợp với việc hai năm trước
đó (1687) chúa Nguyễn Phúc Thái phong thần trong cõi thì người ta bắt đầu đặt
vấn đề xây miếu thờ, để đến năm 1689 khi người ta đã xây nên Quan Thánh Miếu và
Thiên Hậu Cung thì chúa Nguyễn lại tiếp tục gia phong các thần linh như sử đã
ghi; mà từ năm 1689 đến năm 1835 là 146 năm cũng suýt soát là 150 năm như tờ
đơn ghi.