Thứ Tư, 15 tháng 8, 2018

10 Chuyện Giải Buồn - ĐẠO UYỂN 2018


ĐỌC LẠI CHUYỆN GIẢI BUỒN
HUỆ KHẢI
Paulus Huình Tịnh Của, hiệu Tịnh Trai, sinh năm 1830 tại làng Phước Thọ, huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa (nay là huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu), làm công chức tới ngạch đốc phủ sứ,([1]) rất có công truyền bá chữ quốc ngữ trong giai đoạn đầu ở đất Nam Kỳ. Năm 1908 ([2]) ông Paulus (Phaolô) Của trở về với Chúa, được an táng tại Bà Rịa.
Ông soạn Chuyện Giải Buồn gồm hai tập (tổng cộng 112 truyện), in lần đầu ở Sài Gòn năm 1880 (tập đầu) và năm 1885 (tập sau). Vì ông không ghi xuất xứ các truyện ông dịch nên phần đông độc giả Nam Kỳ hâm mộ Chuyện Giải Buồn đều khó biết rằng rất nhiều truyện ly kỳ trong sách được dịch từ bộ Liêu Trai Chí Dị của Bồ Tùng Linh (1640-1715).([3])
Là tín hữu Công Giáo, nhưng trong Chuyện Giải Buồn Paulus Của không loại trừ niềm tin về luân hồi chuyển kiếp. Có thể ông không quan tâm tới khác biệt tiểu tiết về tín lý, mà chỉ nhắm tới tính chất cốt lõi của những chuyện kể trong hai tập sách ấy là khuyến thiện. Do đó, một số chuyện còn dạy người đời hãy biết sợ nhân quả báo ứng, hãy biết ăn hiền ở lành.
Tôi tuyển lại đây một số chuyện kể thú vị trong hai tập Chuyện Giải Buồn. Mỗi chuyện đều được Paulus Của đánh số thứ tự, và tôi giữ nguyên số thứ tự của mỗi chuyện ấy khi trích lại nơi đây. Lỗi chánh tả trong nguyên bản thì phải sửa lại. Những tiếng Việt cổ sẽ được chú thích cho dễ hiểu.
Ước mong rằng những chuyện này có thể giúp ích cho quý vị thuyết minh giáo lý, bình giảng thánh giáo, hướng dẫn các lớp hạnh đường, v.v...
Trích Chuyện Giải Buồn, tập đầu (Sài Gòn, 1880)
2. Cầu tiếng chửi cho rụng lông vịt
Có một ông già nhơn đức hiền lành, cả đời không hề biết chửi ai. Lối xóm có đứa gian thấy ông ấy nuôi vịt, lén tới bắt trộm một con, đem về làm thịt mà ăn. Đứa gian ấy ăn con vịt rồi, không biết làm sao lông vịt mọc ra đầy mình, lấy làm sợ hãi; phần thì xốn xang khó chịu, phần thì xấu hổ, không dám ra khỏi nhà, vợ con nó chạy thuốc thang gì uống vào lông vịt cũng không rụng, nó lại càng kinh hãi hơn nữa; nó cầu khẩn hết sức, xin cho khỏi tật gì quái gở như vậy.
Đêm kia nó nằm chiêm bao thấy thần nhơn mách bảo rằng: Phải lạy ông già nhơn đức ấy, xin ông ấy chửi cho một tiếng, thì rụng hết lông vịt, chẳng phải cầu thầy chạy thuốc làm chi.
Trời vừa rựng sáng, thằng ăn trộm vịt lật đật qua nhà ông già, ban đầu kiếm điều nói dối, mà rằng: Tôi nghe ông mất một con vịt, tôi thấy thằng ở một bên tôi ăn cắp, nó sợ chửi lắm, nếu ông chịu chửi một tiếng, nó phải trả lại cho ông bây giờ.
Ông già nói: Ối thôi! Mất còn, còn mất cũng chẳng làm gì, ai có hơi đâu mà chửi nó cho mệt.
Thằng ăn cắp thấy ông già không chịu chửi, tức mình phải lạy mà thú thiệt rằng: Tôi ăn cắp vịt ông mà bởi tôi ăn thịt nó rồi thì mình mẩy tôi mọc đầy những lông vịt, uống thuốc gì cũng không rụng; nay có thần nhơn mách bảo, dạy tôi phải thú thiệt cùng ông, xin ông chửi một tiếng thì lông vịt sẽ rụng hết; vậy xin ông làm phước, chửi giùm cho tôi một tiếng, kẻo tôi đau đớn khó chịu lắm. Nó và nói và khóc,([4]) ông già thấy vậy động lòng, mới chửi một tiếng, tức thì lông vịt trong mình thằng ăn cắp rụng sạch, trơn tru lại như cũ.
Kẻ bày chuyện bàn rằng: Ấy tội ăn trộm đáng sợ hãi là dường nào, vì một lần ăn trộm mà lông vịt mọc ra đầy mình; vả ([5]) sự chửi bới cũng nên xa lánh là thế nào, vì một tiếng chửi trừ hết tội ăn trộm.
* Ghi chú của HK: Trong Dưới Mái Đạo Viện (Hà Nội: Nxb Tôn Giáo, 2013; quyển 69.1 của Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo), tôi bàn về triết lý chuyện này như sau: “Miệng thèm ăn ngon mà bắt trộm vịt là ẩn dụ tạo nghiệp khẩu; ăn xong bị mọc lông vịt là ẩn dụ quả báo của nghiệp khẩu; nhờ bị chửi mà rụng lông vịt là ẩn dụ trả nghiệp khẩu bằng cách phải chịu ác khẩu.” (tr. 109)
3. Địa ngục ở miền dương gian
Có một người chết tức,([6]) phải đi theo quỷ xuống âm phủ, vua Minh Vương tra bộ không có tên, nói quỷ bắt lầm, dạy quỷ phải đem trả lại dương gian. Người bị quỷ bắt có ý tọc mạch, muốn coi chỗ âm ty ra làm sao, mới nói nhỏ với quỷ, xin đem đi coi cho biết. Quỷ nghe lời, dẫn người ấy đi coi khắp chín cửa ngục, tới một chỗ thấy có một thầy sãi bị cột ngang bắp vế mà treo ngược lên, kêu van rên xiết khốn nạn.([7])
Người ấy bước gần, coi tạn mặt,([8]) thì là anh ruột mình, liền thất kinh hỏi quỷ làm sao mà anh mình phải treo lên khốn khổ như vậy. Quỷ nói tại nó quyên tiền người ta, tưởng để mà làm phước, chẳng dè quyên đặng bao nhiêu, nó đánh bạc hết bấy nhiêu, cho nên phải phạt tội nó như vậy. Người ấy lại hỏi quỷ có lẽ gì ([9]) mà cứu anh mình chăng. Quỷ nói phải ăn năn sám hối thì khỏi.
Đến khi người quỷ bắt lầm sống lại, nhớ việc mình thấy dưới âm phủ, bèn tưởng tới người anh ruột đương tu bên chùa Tập Phước, mới đi qua đó mà thăm anh. Tới nơi thấy anh nằm xó vách, đau một cái ung lớn ở dưới bắp vế, phải treo chon lên, in như ([10]) chuyện thấy dưới âm phủ, thì lấy làm sợ hãi, hỏi anh làm sao mà phải treo chơn lên?
Người anh nói: Tao đau cái ung độc dữ quá, nếu không treo chơn lên, thì nó đau thấu ruột gan. Người em học lại ([11]) mọi việc mình đã thấy dưới âm phủ cùng các lời quỷ nói, thì người anh thất kinh, ăn năn thống hối, qua ít ngày chỗ ung độc lành; từ ấy mới trở nên một ông thầy sãi tốt.
Kẻ bày chuyện bàn rằng: Đứa tiểu nhơn thường nói chừng nào xuống địa ngục sẽ hay; mà chẳng biết những sự họa hại ở đời nầy, thì rõ ràng là hình phạt dưới địa ngục.
* Ghi chú của HK: Ông thầy tu chùa Tập Phước phạm tội quyên tiền bá tánh rồi đem đánh bạc. Hiểu rộng ra là mượn danh làm đạo quyên tiền rồi dùng cho việc riêng. Kinh Sám Hối (câu 261-264) răn dạy:
Lại có kẻ miệng ngay lòng vạy,
Tởi ([12]) làm chùa, dối cậy in kinh,
Ăn gian xới bớt cho mình,
Đâu qua dương pháp,([13]) luật hình Diêm Vương.
Nhưng quả báo của ông ấy đâu phải đợi xuống âm phủ; lúc còn sống mà đã phải bị treo chân. Đó là quả báo nhãn tiền. Như vậy, phải chăng những hoạn nạn đời người chính là để trả quả kiếp trước và hiện tại?
4. Ăn mày xin vàng nén
Có một người giàu có lớn, mà hà tiện cũng lớn, cứ bo bo giữ của không chịu làm phước cho ai. Có một tên ăn mày tới xin quyết ([14]) một nén vàng,([15]) người nhà giàu phát giận, nói giá ăn mày ([16]) dám xin tới vàng nén, biểu đày tớ đuổi đi. Tên ăn mày la lết ([17]) không chịu đi, cứ việc ở trước nhà mà xin mãi. Trong nhà không ai thèm nói tới, tên ăn mày sớm đi xin chỗ khác, trưa lại lộn về ở tại nhà giàu mà nài hoài cho đặng nén vàng.
Nó làm như vậy đã đặng ba năm, người nhà giàu thấy nó có công gắn vó,([18]) cũng mỏi lòng ([19]) mà chịu cho. Tên ăn mày được nén vàng, thì làm bộ nhảy nhót mầng rỡ bội phần, liền cổi áo gói lại mà đi. Khi tên ăn mày đi ra một đỗi, thì người nhà giàu sai một đứa đày tớ theo rình coi lão ăn mày đem nén vàng đi đâu, cùng làm ([20]) chuyện gì với nén vàng. Tên đày tớ đi theo xa xa, thấy lão ăn mày đi thẳng ra ngoài đồng, tới chỗ bóng mát ngồi xuống mở áo lấy nén vàng, dồi lên dồi xuống mà giỡn chơi, coi ra ý mầng rỡ lắm.
Cách một hồi lão ấy buồn ngủ, nằm chèo queo, nén vàng thì để trần ([21]) một bên chỗ ngủ. Đứa đày tớ nom đặng, chờ lão ăn mày ngủ mòm,([22]) lén lại lấy nén vàng đem về cho chủ, chủ mầng còn nén vàng, liền đem đi cất. Lão ăn mày thức dậy thấy mất nén vàng, không thèm tìm kiếm, xăm xăm trở lại nhà giàu mà xin nén khác.
Ông nhà giàu nói: Mới cho một nén làm gì hết đi, mà còn xin nữa?
Lão ăn mày nói: Tôi vừa nhắm mắt, nó liền mất đi, nên phải xin ông nén khác.
Ông nhà giàu nghe nói, dường như ai soi sáng tấm lòng, liền hiểu sự đời: Hễ con người ta nhắm mắt rồi thì chẳng còn của cải sự nghiệp gì nữa; mới khẩn nguyền xin tán của cải ([23]) mà làm phước với thiên hạ; sau nghĩ lại, mới biết người ăn mày ấy là tiên.
* Ghi chú của HK: Giấc ngủ của lão ăn mày ẩn dụ cái chết. Chết là hết. Của cải có nhiều cỡ nào cũng không giữ được. Chỉ còn hai bàn tay trắng.
HUỆ KHẢI


([1]) Đốc phủ sứ (thường gọi tắt đốc phủ) là ngạch công chức cao hơn ngạch tri phủ. Ngạch tri phủ có hai hạng: tri phủ hạng nhì (phủ de 2e classe); tri phủ hạng nhứt (phủ de 1er classe). (Tham khảo: Ngày 01-01-1924 tiền khai Ngô Văn Chiêu thăng lên ngạch tri phủ hạng nhì, tiền lương là 1.672 đồng. Ngày 01-7-1926 tiền khai Ngô Văn Chiêu thăng lên ngạch tri phủ hạng nhứt, tiền lương là 1.933 đồng. Dưới ngạch tri phủ là ngạch tri huyện, cũng có hai hạng: tri huyện hạng nhì (huyện de 2e classe); tri huyện hạng nhứt (huyện de 1er classe). (Tham khảo: Ngày 14-7-1920 tiền khai Ngô Văn Chiêu thăng tri huyện hạng nhứt, tiền lương 1.222 đồng.) Thơ ký các cơ quan hành chánh Nam Kỳ thời Pháp thuộc muốn được thăng lên ngạch huyện, phủ đều phải qua các kỳ thi rất gắt gao.
([2]) Theo Văn Học Quốc Ngữ Nam Kỳ 1865-1930, của Bằng Giang (Nxb Trẻ, 1992, tái bản 1998, tr. 73) thì Huình Tịnh Của tạ thế ngày 23-12 Đinh Mùi (Chủ Nhật 26-01-1908).
([3]) Gồm hơn 400 truyện, ra đời vào đầu triều nhà Thanh (Trung Hoa), Liêu Trai Chí Dị có nghĩa là những chuyện rất quái dị chép ở căn nhà tạm.
([4]) và nói và khóc: Vừa nói vừa khóc.
([5]) vả: Vả lại, hơn nữa.
([6]) chết tức: Chết không kịp trối, không kịp cho uống thuốc.
([7]) khốn nạn: Khổ sở đáng thương.
([8]) coi tạn mặt: Nhìn thẳng vào mặt, nhìn sát mặt.
([9]) có lẽ gì: Có cách gì.
([10]) in như: Y hệt như, giống y như.
([11]) học lại: Kể lại, thuật lại.
([12]) tởi: Quyên góp tiền bạc.
([13]) dương pháp 陽法: Pháp luật dương gian, của một nước.
([14]) xin quyết: Nhất quyết xin cho bằng được. Khăng khăng xin cho bằng được.
([15]) nén vàng: Mười lượng vàng.
([16]) giá ăn mày: Thân phận ăn mày.
([17]) la lết: Ngồi mà lết tới.
([18]) gắn vó: Nài xin.
([19]) mỏi lòng: Mềm lòng, xiêu lòng.
([20]) cùng làm: Và làm.
([21]) để trần: Phô bày ra, không che giấu.
([22]) ngủ mòm: Ngủ say, ngủ mê man.
([23]) tán của cải: Cho hết của cải.