HUÌNH TỊNH CỦA VÀ
ĐẠI NAM QUẤC ÂM TỰ VỊ
TRẦN VĂN CHÁNH
Kỷ
niệm mười năm ấn tống (2008-2018), Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại
Đạo vừa in thêm tập sách 116-1, nhan đề: Một
Số Từ Việt Cổ Trong Kinh Minh Lý Đạo Và Phật Giáo Hòa Hảo (Hà Nội: Nxb Hồng
Đức, 40 trang). Một trong các tài liệu tham khảo được nêu trong sách là bộ Đại Nam Quấc Âm Tự Vị (hai quyển) của
Huình Tịnh Paulus Của, lần lượt in tại Sài Gòn năm 1895, 1896.
Đầu
năm nay, bộ sách quý hiếm này được Tu Viện Huệ Quang (116 Hòa Bình, Tân Thới Hòa, Tân Phú, TpHCM)
hợp tác với Nxb Tổng Hợp TpHCM tái bản bằng cách chụp lại từng trang đúng theo
sách gốc, mà còn xử lý cho rõ nét hơn. Đặc biệt, mở đầu bộ sách, Tu Viện Huệ
Quang cậy học giả Trần Văn Chánh viết cho một bài rất hay nhằm giới thiệu P.
Của và bộ sách của ông.
Quan tâm tìm hiểu từ Việt cổ trong thánh giáo
Cao Đài, tín hữu áo trắng chúng ta cũng nên
biết tới bộ tự vị danh tiếng và tiểu sử tác giả của nó, Paulus Của. Đạo Uyển rất hân hạnh được in lại nơi
đây bài khảo cứu của Trần tiên sinh; khi lược bớt một số đoạn trong nguyên bản,
chúng tôi ký hiệu là [...].
Đại Nam Quấc Âm Tự Vị do Huình Tịnh Của (1830-1908) và một số cộng
sự viên ([1])
biên soạn là quyển từ điển đơn ngữ tiếng Việt đúng nghĩa đầu tiên của Việt Nam,
ghi mục từ tiếng Việt có kèm chữ Nôm, chữ Hán và dùng tiếng Việt để giải nghĩa
các từ đơn, từ ghép, quán ngữ, thành ngữ, tục ngữ… mà tác giả đã dày công sưu
tập được từ trong dân gian cũng như trong sách vở cũ hoặc đương thời, trong
điều kiện câu văn Quốc Ngữ còn đang tập tễnh đi vào sinh hoạt văn hóa một cách
chưa hoàn toàn ổn định. Đây cũng có thể được coi là công trình quan trọng quy
mô lớn, có tính tiên phong khai sáng và tập đại thành đầu tiên về tiếng Việt,([2])
do Imprimerie REY, CURIOL & Cie xuất bản tại Sài Gòn, chia thành
hai tập, khổ 24x31cm: Tập I năm 1895 (vần A-L, 608 trang) và tập II năm 1896
(vần M-X, 596 trang). Trong lời “Tiểu Tự” ở đầu tập I, tác giả cho biết đã mất
hơn bốn năm để hoàn thành bộ tự vị này và đã nhờ quan Thống Đốc Nam Kỳ chuẩn
tiền cho in.([3])
Bộ tự vị ra đời đã khiến những người quan
tâm học tập, nghiên cứu tiếng Việt chú ý ngay đến giá trị đặc biệt của nó qua
sự thu thập từ ngữ rất công phu cũng như cách lựa chọn và giảng giải các mục từ
của soạn giả… Mặc dù vậy, trong văn học sử, tên Huình Tịnh Của cũng như công
trình tiên phong đồ sộ này của ông có thời gian khá dài dường như ít được nhắc
tới. Ngay trong Việt Nam Văn Học Sử Yếu (Sài
Gòn: Bộ Giáo Dục -
Trung Tâm Học Liệu, 1968, tr. 412), Dương Quảng Hàm [1898-1946] cũng chỉ nhắc
lướt qua tên ông với bộ Đại Nam Quấc Âm
Tự Vị, chỉ trong hơn bốn dòng cước chú cho chương “Sự Thành Lập Một Nền
Quốc Văn Mới”. Đến Nhà Văn Hiện Đại (Sài
Gòn: Thăng Long tái bản lần thứ ba, 1960), quyển nhất dành cho “các nhà văn đi
tiên phong” (phần I: “Những Nhà Văn Hồi Mới Có Chữ Quốc Ngữ”), Vũ Ngọc Phan [1902-1987]
chỉ viết về Trương Vĩnh Ký (1837-1898) mà bỏ qua hẳn Huình Tịnh Của, trong khi
cả hai ông đều là nhà văn - nhà
báo, nhà biên khảo - dịch
thuật hoạt động đồng thời và đều có những thành tích xuất sắc.
Phải đợi đến Biểu Nhất Lãm Văn Học Cận Đại 1862-1945, Tập I (Sài Gòn: Cơ Sở Xuất Bản Và Báo Chí Tự Do, 1958), Thanh Lãng
[1924-1978] lần đầu tiên mới đưa ra một ý kiến đánh giá tổng quát và khách quan
về bộ Đại Nam Quấc Âm Tự Vị: “Huình
Tịnh Của là người đầu tiên soạn thảo một cuốn tự vị gồm hầu hết những tiếng và
những thành ngữ đương thời có chua cả chữ Nho và chữ Nôm, cái công phu của nó
là soạn giả có công phu giải nghĩa bằng tiếng Việt... Đại Nam
Quấc Âm Tự Vị của Huình Tịnh Của là cơ sở vững chãi cho sự nghiệp xây đắp
về sau này của các soạn giả khác. Nhờ có
cuốn đó, mà tiếng nói Việt Nam được thống nhất phần nào. Nó đã là một tài liệu
quý giá hướng dẫn các văn gia trong gần nửa thế kỷ.”
Sang đến
Việt Nam Văn Học Sử Giản Ước Tân Biên,
Tập III (Sài Gòn: Quốc Học Tùng Thư, 1965, tr. 80-84), Phạm Thế Ngũ [1921-2000]
đã trang trọng dành một chỗ rộng rãi hơn cho Huình Tịnh Của, với sự trình bày
và phân tích tuy sơ lược nhưng tương đối đầy đủ trong Chương III, Mục V, “Huình
Tịnh Của Và Pho Quốc Âm Tự Vị Của Ông”, với mấy đoạn đánh giá rất cao: “Ngày
nay mở pho tự vị đồ sộ ấy của H.T. Của, ai cũng phải nhận ông đã đóng góp nhiều
– có thể nói quá nhiều nữa – cho việc xây dựng quốc văn mới.” (tr. 82); “Tóm
lại cuốn tự vị của H.T. Của là một tài liệu quý giá cho chúng ta ngày nay khảo
về tiếng Việt, tra cứu những tiếng Nôm xưa, nhất là những tiếng Nôm địa phương
ở miền Nam. Ngay đối với những tiếng nay còn thông dụng, cách tác giả viết và
giải thích nhiều chữ không phải không đem lại cho chúng ta bây giờ một ít ánh
sáng về từ ngữ học… Người chủ trương làm một pho tự điển Việt Nam xứng đáng
ngày mai, tất nhiên có thể rút ích ở những kiến giải ấy cũng như ở đường lối,
phương pháp, tài liệu của một người đi trước. Công việc đi trước ấy của H.T.
Của quả là một công việc phi thường.” (tr. 83)
Sự đóng góp đáng kể như trên có thể được tóm tắt thành ba
phương diện quan trọng, theo ý kiến của Nguyễn Văn Y (trong Huình Tịnh Của Và Công Trình Đại Nam Quấc Âm
Từ Vị, tiểu luận đã dẫn), đó là:
(1) Giữ gìn gia
tài văn hóa cổ truyền về từ ngữ, vì nếu không có Đại Nam Quấc Âm Tự Vị ghi chép, giải thích các từ ngữ xưa của người
Việt dùng ở thế kỷ XIX, thì ngày nay chúng ta sẽ khó khăn biết bao khi muốn
hiểu tận tường ý nghĩa của các từ ngữ cổ nằm trong các áng văn của tiền nhân mà
hiện nay không còn thông dụng nữa, như: Chạn:
vóc giạc; Chồ: hè chái (tranh lá); Luỗi: mệt mỏi, mất sức; Min: tao, ta, (kẻ lớn xưng mình); Nguôi hoai: phai đi, nguôi đi; Vuối: cùng, cũng; Ne: nghiêng về một bên… Đúng như Maurice Durand và Nguyễn Trần Huân
đã nhận định: “Cho đến ngày nay, bộ tự điển nầy vẫn còn lập thành một tài liệu
đầu tay cho những ai nghiên cứu ngôn ngữ Việt Nam ở cuối thế kỷ XIX.” (Ce dictionnaire constitue, encore de nos
jours, un document de première main pour ceux qui étudient la langue vietnamienne de la fin du XIX siècle.
- G.P. Maisonneuve et Larose. Paris : Introduction
à la littérature vietnamienne, 1969, p. 190. Dẫn theo Nguyễn Văn Y, tiểu
luận đã dẫn, tr. 140).
(2) Cung cấp tài liệu cho sự nghiên cứu xã hội Việt Nam
hồi cuối thế kỷ XIX. Về điểm này, Huình Tịnh Của đã đem vào tự vị của ông đủ
các loại từ ngữ thuộc mọi lãnh vực tri thức của con người, cho ta biết qua từ
lịch sử, phong tục, tập quán, tôn giáo cho đến các thú tiêu khiển, các trò chơi
của người Việt thời xưa hoặc ở thời ông sống.
[...]
(3) Thống nhất văn tự, ngôn ngữ, làm nền tảng cho mọi
công trình văn học. Vào thời Huình Tịnh Của, báo chí Quốc Ngữ bắt đầu xuất
hiện, nhưng không có một quyển tự điển đơn ngữ giải nghĩa tiếng Việt bằng tiếng
Việt làm tiêu chuẩn về cách viết, cách hiểu đúng ý nghĩa của mỗi từ ngữ, nên sự
xuất hiện của Đại Nam Quấc Âm Tự Vị
là tối cần thiết, giúp ích rất nhiều cho công cuộc phát triển nền văn chương
học thuật nước nhà hồi cuối thế kỷ XIX. “Có thể nói Huình Tịnh Của là một trong
những người đầu tiên đặt nền tảng cho nền văn học chữ Quốc Ngữ thời cận đại…;
làm cho người Việt ở ba miền, qua trung gian của bộ tự điển được giải nghĩa rõ
ràng ấy, có thể hiểu được lời nói cũng như câu văn của nhau… Chỉ với bộ sách
duy nhất đó thôi, cái tên Huình Tịnh Của đã đủ sáng chói trên nền văn học Việt
Nam cận đại và Đại Nam Quấc Âm Tự Vị trải
qua gần một thế kỷ vẫn còn xứng đáng là bộ tự điển gối đầu giường của giới trí
thức nước ta” (Nguyễn Văn Y, tiểu luận đã dẫn, tr. 149-150).
Về các mặt ưu điểm của Đại Nam Quấc Âm Tự Vị, các nhà nghiên cứu tiếng Việt trước nay đều
thừa nhận: (1) Định nghĩa ngắn gọn, rõ ràng, chính xác; (2) Là một bộ tự điển
phổ thông, đại chúng; (3) Ngữ vựng phong phú, chứa đựng dồi dào tiếng Nôm và
nhiều tiếng địa phương miền Nam; (4) Có ghi đủ cả ba thứ chữ Quốc Ngữ, Hán, Nôm
và nêu phân biệt tiếng nào là tiếng Hán Việt, tiếng nào là tiếng Nôm, hoặc vừa
Hán vừa Nôm; (5) Phương pháp biên soạn vừa khoa học (tuân thủ nguyên tắc ngôn
ngữ thống nhất), vừa thực tế (biết thích nghi biến hóa theo thực tiễn của tiếng
Việt).
Tuy nhiên, Đại Nam Quấc
Âm Tự Vị không phải không có những mặt hạn chế nhất định, chủ yếu vì nguyên
nhân khách quan, do soạn giả của nó sống trong thời kỳ chữ và câu văn Quốc Ngữ
còn chưa phát triển ổn định, tài liệu tham khảo thiếu, lại phải mò mẫm phương
pháp, tự bơi một mình làm việc.
[...]
... (N)ếu so sánh đối chiếu Đại Nam Quấc Âm Tự Vị với các tự/từ điển ra đời sau nó, chúng ta
thấy mục từ cơ bản ở đây là tiếng (tự) hoặc từ (đơn). Sau mỗi mục từ cơ bản là
các kết hợp của tiếng đó với các tiếng khác, như sau tiếng cha thì có Cha mẹ, Cha đẻ,…
Cha cầm đầu, Cha đỡ đầu, Cha bàu chủ, Cha cả, Cha phần hồn,… Các tổ hợp sau
mỗi tự/từ đơn trong Đại Nam Quấc Âm Tự Vị
lại được thu thập/nêu ra một cách khá tùy tiện, với một số tổ hợp hầu như “vô
loại”, vì không thể xếp chúng thuộc vào loại đơn vị nào (là từ, cụm từ quen
dùng, hay thành ngữ?), như đưa cả vả rớt
răng, xỉa răng vào mục từ răng;
đưa ớ ai, chớ ai vào mục từ ai...
Các thông tin thuộc về cấu trúc vi mô ([4])
của một quyển tự/từ điển tiếng Việt cũng không được soạn giả chú ý đầy đủ,
ngoài việc ghi chữ n sau mục từ để
biểu thị “nôm”, chữ c để biểu thị
“chữ Nho”, và c, n biểu thị “chữ Nho mà có dùng Nôm”.
Về cách định nghĩa/giải thích ở mục từ cơ bản, tuy có
ngắn gọn rõ ràng và khá chính xác nhưng lại quá giản đơn, vì thế đôi khi không
đủ đáp ứng giúp người đọc hiểu được các nghĩa khác nhau của một từ đa nghĩa.
Soạn giả thường chỉ nêu được một, hai nghĩa chính yếu nhất, như ở từ cha chỉ nêu được duy nhất một nghĩa “Kẻ
sinh ra mình”, không nêu được nghĩa “linh mục” và những nghĩa khác, nhưng trong
các kết hợp phía dưới thì lại có Cha cầm
đầu, Cha đỡ đầu, Cha bàu chủ (dùng theo nghĩa “linh
mục”): Người đỡ đầu trong lúc rửa tội,
chịu che chở cho mình cũng như cha đẻ. Ở mục từ ăn chỉ nêu được hai nghĩa “nhai nuốt” và “hưởng dùng” (trong khi so
với tự điển KTTĐ nêu phân biệt được đến mười hai nghĩa; LVĐ sáu nghĩa; HP mười
ba nghĩa),([5]) dưới nêu ra và giải thích đến 124 từ ngữ,
thành ngữ, tục ngữ, cụm từ quen dùng (quán dụng ngữ) đi với chữ ăn, nhưng xếp một cách hầu như lộn xộn,
không phân biệt giữa nghĩa “nhai nuốt” và “hưởng dùng”.
Về từ ngữ, thành ngữ, câu dùng làm thí dụ, soạn giả không
nêu thí dụ ngay sau một hoặc hai nghĩa chính nào đó, mà dường như muốn dùng các
kết hợp phía dưới được xếp đặt một cách khá lộn xộn, không phân biệt nghĩa, để
vừa giải thích, vừa thay luôn cho các thí dụ cho từ đầu mục.
Mấy điều vừa nói trên đây là một số điểm vô lý, thiếu
logic khá quan trọng trong việc biên soạn tự/từ điển. Điều hạn chế này có thể
hiểu được, vì trong điều kiện giữa thế kỷ XIX, Huình Tịnh Của và các đồng sự
của ông chưa thể có đủ sách vở/tài liệu tham khảo để tiếp cận được với khoa từ
điển học hiện đại.
“Nói tóm lại, mặc dù có một số khuyết điểm…,([6])
Huình Tịnh Của thật sự đã tiến một bước rất xa trong việc làm tự điển ở thời
đại ông…
Lần đầu tiên Huình Tịnh Của làm công việc định nghĩa
tiếng Việt bằng tiếng Việt, một việc làm tiên phong như vậy không thể coi là dễ
dàng được. Phải có một sở học thật vững chắc, một khả năng ngôn ngữ, cộng với một
tấm lòng tận tụy say mê, người ta mới có thể hoàn thành một bộ tự điển vừa
phong phú về nội dung, vừa đặc sắc về cách định nghĩa.
Cho đến ngày nay, thiết tưởng Đại Nam Quấc Âm Tự Vị vẫn còn là một bộ tự điển giá trị, giúp ích
rất nhiều cho những ai muốn học hỏi tiếng Việt, chúng ta thật khó có thể tìm
một bộ tự điển Việt Nam nào khả dĩ thay thế nó hoàn toàn được. Kể về nội dung
cũng như hình thức, bộ Đại Nam Quấc Âm Tự
Vị vẫn còn ăn đứt nhiều bộ tự điển Việt Nam hiện đang có mặt ở thị trường
sách.”([7]) (Nguyễn
Văn Y, tiểu luận đã dẫn, tr. 128-129.)
Nhà văn Sơn Nam [1926-2008]
cũng không ngại lời ca tụng: “Một công trình đáng kể về khối lượng và chất
lượng, ghi lại lời ăn tiếng nói của mọi giới ở vùng đất Đồng Nai. Những tiếng lóng, tiếng thông dụng mà các nhà
bác học mãi đến nay còn do dự, chưa ghi vào tự điển vẫn có mặt trong quyển tự
vị này: bánh hỏi, mười hai mụ bà, mười ba đức thầy...” (Người Sài Gòn. Nxb Trẻ, 2004.)
Tiếp
sau, chúng ta sẽ lần lượt khảo sát từ thể thức trình bày đến các mặt nội dung
cụ thể của Đại Nam Quấc Âm Tự Vị.([8])
THỂ THỨC TRÌNH BÀY CỦA ĐẠI NAM QUẤC ÂM TỰ VỊ
[...]
TỪ NGỮ VIỆT CỔ
Phàm ai
muốn có một bộ Đại Nam Quấc Âm Tự Vị trong
tay thì điều người ta nghĩ tới trước tiên mà cũng là đặc điểm nổi bật nhất của
nó đối với người có nhu cầu học hỏi, tra cứu, nghiên cứu tiếng Việt ngày nay là
bộ tự điển này chứa đựng khoảng gần hai ngàn từ ngữ cổ,([9])
có lẽ rất thông dụng ở thế kỷ XIX hoặc thời gian trước đó khá lâu, nhưng hiện
nay người Việt không còn nói, không còn viết nữa. Để tra cứu những từ ngữ thông
thường, có lẽ không ai mất công phải tìm đến Đại Nam Quấc Âm Tự Vị, vì trong trường hợp này, chỉ cần dùng các
loại từ điển tiếng Việt thông dụng hiện đại sẽ được tiện lợi hơn nhiều.
[...]
Đặc biệt
có những tiếng nói chơi, tiếng lóng thường dùng ở thời Huình Tịnh Của mà hiện
nay không mấy người Việt biết đến được ông ghi chép, giải thích: Bình phu: vừa bằng. Tiếng riêng người cờ
bạc; không ăn không thua, đủ vốn gọi là bình
phu [quyển I, trang 59, cột 1, hàng 3-5]; Cao thành lớn bánh: tiếng nói chơi người cao lớn mà thô tục (thường
hiểu về đờn bà) [q. II, tr. 373, c. 1, h. 42-44]; Chộ cằn: tiếng riêng trong sự đánh bài, chỉ nghĩa là đánh rán cho
hết bài [q. I, tr. 148, c. 1, h. 11-12]; Đời
la đa lép đép: đời lâu xa chẳng biết đâu mà tính (tiếng nói chơi) [q. I,
tr. 560, c. 1, h. 43-44]; Ông dài:
sấu lớn. Ngu tục sợ sấu kêu nó bằng ông, mà lại không dám kêu tên [q. I, tr.
216, c. 1, h. 11-12]; Ông trắm Khổng-lò:
hiểu là hai lỗ mũi, (tiếng nói chơi) [q. II, tr. 466, c. 1, h. 41-42]; Tiền phú hậu bần. Trước giàu sau nghèo:
dụng như tiếng nói chơi thì hiểu là đầu lớn đít nhỏ [q. II, tr. 207, c. 1, h.
6-8].
Chỉ
riêng từ “nói”, Tự Điển Việt Nam của
Lê Văn Đức có ghi đến mấy trăm “lối nói”, nhưng lại thiếu gần cả trăm lối nói
mà Đại Nam Quấc Âm Tự Vị đã ghi nhận
và giải nghĩa (liệt kê theo thứ tự a, b, c), như: Nói bá quàn, Nói bào chuốt,
Nói bắc cầu, Nói bát cạy, Nói bỏ xó, Nói bổng chảng, Nói cay ngạc, Nói có sách ước,
Nói chạ, Nói chả chớt, Nói chèo đai,
Nói chi ngô, Nói chiệng ảnh, Nói chiếu,
Nói choãnh…, Nói xóc đế…([10])
THÀNH
NGỮ, TỤC NGỮ
Theo thống kê của Nguyễn Văn Y, “Trong bộ
Đại Nam
Quấc Âm Tự Vị có tất cả trên năm trăm câu thành ngữ và tục ngữ Việt Nam . Trong số
đó, có gần ba trăm câu mà chúng ta không tìm thấy trong quyển Tục Ngữ Phong Dao của Ôn Như Nguyễn Văn
Ngọc [1890-1942] và cả trong bộ Tự Điển
Việt Nam của Lê Văn Đức, và có hơn sáu mươi câu khác với hai bộ ấy ở một
vài chữ” (tiểu luận đã dẫn, tr. 44). Có thể kể: Ăn thì dùa, thua thì chịu [q. I, tr. 246, c. 2, h. 37-38]; Cao lễ dễ thưa [q. I, tr. 104, c. 1, h.
47-48]; Con có cha nhà có chủ [q. I,
tr. 158, c. 2, h. 47-48]; Cục đất nắn ra
ông táo [q. II, tr. 200, c. 2, h. 13-15]; Ăn tấm trả giặt [q. II, tr. 336, c. 1, h. 11]; Chạy ô rô, mắc ô mã [q. II, tr. 169, c. 1, h. 29-30]; Chết ngẳng củ từ [q. II, tr. 510, c. 1,
h. 7]; Đắng như khổ qua quẹo [q. II,
tr. 230, c. 2, h. 23]; Đặng kiện như sọ
trâu khô, mất kiện như mồ ma chết [q. I, tr. 513, c. 2, h. 31-34].
Có khá
nhiều câu nếu không được Huình Tịnh Của giải thích thì người bây giờ thật khó
suy đoán ý nghĩa. Như: Ăn cơm bảy phủ [q.
II, tr. 208, c. 1, h. 26-28]; Ăn như xa
cán cùn [q. I, tr. 96, c. 2, h. 39]; Ăn
trầu cách mắt [q. I, tr. 11, c. 1, h. 41-44]; Bẻ cò bỏ nóp [q. I, tr. 175, c. 1, h. 20-21].
Một số
câu mở đầu bằng chữ “Làm”, chỉ có trong Đại
Nam Quấc Âm Tự Vị, mà không thấy có trong hai bộ sách nói ở trên: Làm ăn như chết đuối vịn bờ [q. I, tr.
133, c. 2, h. 27-28]; Làm chuyện trảy mày
[q. II, tr. 465, c. 1, h. 8]; Làm gái làm
mụ [q. II, tr. 342, c. 2, h. 18-19]; Làm
như chỉ lộn cuồng [q. I, tr. 137, c. 2, h. 45]; Làm như con mẹ nhạy [q. II, tr. 118, c. 1, h. 27-28]; Làm như đi thỉnh kinh [q. II, tr. 398,
c. 1, h. 35-36]; Làm như hùm mất thịt
[q. II, tr. 400, c. 1, h. 24-25].
TỪ NGỮ VỀ CỎ CÂY VÀ CHIM THÚ
Đại Nam Quấc Âm Từ Vị sưu tập khá nhiều từ ngữ liên quan tên gọi
cỏ cây và chim thú, kèm theo những định nghĩa ngắn gọn, dễ hiểu, sát với thực
tế đời sống. Tuy nhiên, vẫn còn mặt hạn chế chủ yếu ở chỗ phần nhiều cách mô tả
cỏ cây, chim thú chưa đạt chuẩn khoa học, cũng không có tên khoa học bằng tiếng
Latin đi kèm như trong từ điển của Taberd. Như ở chữ CẦN với nghĩa rau cần,
soạn giả giải thích: Loại rau thơm ưa đất thấp, một thứ nhỏ lá thơm nhiều, gọi
là cần Tàu một thứ lớn lá ít thơm,
gọi là cần ta còn một thứ lớn cây lớn
lá không thơm gọi là cần trâu [q. I,
tr. 99, c. 2, h. 41-44].
Tuy
nhiên, nhờ lối định nghĩa ngắn gọn và thực tế đặc biệt của tác giả, chúng ta
ngày nay nhận thấy các giống loài cỏ cây và chim thú phần lớn đã được người
Việt đặt tên gọi bằng cách dựa trên hình dáng, màu sắc (Cỏ chỉ, Chuối hột,
Chuối lá trắng, Chuối lá đen, Chuối lửa, Cây vòi voi, Cây vú sữa…); hoặc vào
tính chất, công dụng (Hoa mắc cỡ, Hoa nguyệt quới, Hoa tý ngọ, Bông tứ quý, Cây
thuốc nọc, Cỏ xước…); hoặc vào âm thanh, theo tiếng kêu (Ảnh òn, Ảnh ương, Cà
khu, Chó chóc, Cú, Cu gầm ghì, Chim hít cô, Chim trã trẹt, Ve…).
Về tên
gọi cỏ cây và chim thú, Huình Tịnh Của tỏ ra rất uyên bác, biết rõ nhiều loài
khác nhau trong một giống sinh vật. Như về các loài chuối: Chuối cau, Chuối cơm, Chuối hột, Chuối lá đen, Chuối lá
trắng, Chuối lửa, Chuối nanh heo, Chuối non nước, Chuối nước, Chuối và hương, Chuối
và lùn, Chuối vông [q. I, tr. 169, c. 1 và 2]. Các loài tre: Tre bạc mày, Tre bông, Tre bộp, Tre dây, Tre đài, Tre đỏ, Tre
gai, Tre giang, Tre la ngà, Tre lồ ô, Tre lông, Tre mò o, Tre nứa, Tre
tàu, Tre tầm vông [q. II, tr. 476, c. 1 và 2]. Các loài kiến: Kiến lửa, Kiến đất, Kiến cỏ, Kiến vàng, Kiến hôi, Kiến riện, Bò
nhọt, Kiến mọi, Kiến mốc, Kiến kim, Kiến vương, Kiến cành, Kiến cánh [q. I, tr.
514, c. 1 và c. 2]. Các loài ngựa:
Ngựa bạch, Ngựa kim, Ngựa kim than, Ngựa kim lem, Ngựa kim lân, Ngựa bích, Ngựa
hội, Ngựa hạc, Ngựa séo, Ngựa khứu, Ngựa ô, Ngựa tía, Ngựa tía vang, Ngựa tía
cháy, Ngựa hồng, Ngựa đạm, Ngựa đạm chỉ, Ngựa đạm lợt [q. II, tr. 108, c. 1 và
c. 2]. Các loại rắn: Rắn rồng, Rắn
rồng ri, Rắn rồng ri cá, Rắn rồng ri cóc, Rắn liu điu, Rắn lãi, Rắn ráo, Rắn
nước, Rắn bông súng, Rắn roi, Rắn hổ, Rắn hổ đất, Rắn hổ ba khoang, Rắn hổ
ngựa, Rắn hổ mây, Rắn hổ chuối, Rắn hổ mang, Rắn hổ hành, Rắn mái gầm, Rắn nẹp
nia, Rắn vày tên, Rắn râu, Rắn trun, Rắn trun đỉa, Rắn trun đẻn, Rắn trun cườm,
Rắn lục, Rắn lục lửa, Rắn mặt cân, Rắn đòn cân, Rắn mỏ vọ [q. II, tr. 245, c.
2, h. 18-49].
TÊN NGƯỜI VÀ TÊN ĐẤT
“Cả bộ Đại Nam Quấc
Âm Tự Vị chỉ chiếm vào khoảng 70 mục từ về tên người và 360 mục từ về tên
đất.([11]) Hai
loại này thật quá ít, dường như soạn giả chỉ ghi những tên người, tên đất nào
thường được nói đến, nghe đến, hay đọc thấy trong các sách rất phổ thông ở thời
đại ông, chứ chưa chịu khó tra tìm thêm ở các sách sử, địa, các loại địa phương
chí để thu thập, ghi chép.
Riêng về
phần nhơn danh, tên các nhơn vật trong lịch sử Trung Hoa chiếm hết hai phần ba,
nhơn danh Việt Nam chỉ gồm có mười mấy tiếng. Sở dĩ có hiện tượng nầy, biết đâu
là do hồi thời đó văn chương của các nhà Nho, của hàng trí thức, thường chứa
các danh từ về nhơn danh Trung Quốc nhiều hơn, mà Huình Tịnh Của chỉ là người
lượm lặt những từ ngữ thường được viết trong các áng văn thời ấy ra để đem vào
tự điển. Dù sao, đó vẫn là một khuyết điểm của một bộ tự điển Việt Nam.”
(Nguyễn Văn Y, tiểu luận đã dẫn, tr. 59.)
Cách
giải thích tên người tên đất phần nhiều cũng giản đơn không đủ rõ, hoặc thậm
chí sai sót, do chỉ ghi theo trí nhớ, mà không tra cứu. Như: Càn long.([12]) Hiệu vua thứ hai, đời nhà Thanh (Trung Quốc);
cũng là tên chỗ [q. 1, tr. 97, c. 1, h. 19-20]. Trong thí dụ này có hai điểm
không ổn: (1) Ở nghĩa thứ nhất, Càn Long thật ra không phải là “Hiệu vua thứ
hai, đời nhà Thanh” (mà phải là vua thứ năm Thanh Cao Tông [1736-1795] mới
đúng); (2) Ở nghĩa thứ hai, tên đất, chỉ giải thích “cũng là tên chỗ” thì không
ai biết chỗ là chỗ nào (có lẽ soạn giả muốn nói tới quận Càng Long, thuộc thành
phố Trà Vinh ngày nay).
Về địa
danh Trung Quốc, trái lại, Huình Tịnh Của ghi rất ít, chỉ có hơn 20 danh từ
trong tổng số trên 350 danh từ địa danh.
Riêng về
các địa danh ở Việt Nam, toàn bộ tự điển có trên ba trăm danh từ, mà hai phần
ba là các địa danh ở miền Nam; miền Trung và miền Bắc ít hơn. Ta nhận thấy
những địa danh nằm trong vùng Phước Tuy (thuộc tỉnh Bà Rịa), nơi chôn nhau cắt
rún của Huình Tịnh Của, được ông ghi vào tự điển nhiều nhất trong số các địa
danh ở mỗi tỉnh. [...]
Đại Nam Quấc Âm Tự Vị không ghi đủ tên các tỉnh ở Việt Nam, toàn
quốc chỉ có vài mươi tỉnh được nhắc đến. Ngay đối với các tỉnh miền Nam cũng
thiếu sót.
Trong
các địa danh miền Nam, nhiều nhất là tên sông rạch, núi non; rất ít các địa
danh về phủ, huyện, làng. Ít hơn nữa là một số địa danh về cù lao, cửa biển,
bãi, gành, giồng, truông; có tên vài ngôi chợ, chùa, miếu, nhưng càng quá ít.
Ngoài
ra, trong Đại Nam Quấc Âm Tự Vị còn
có vài chục địa danh thuộc các nước khác trên thế giới, hầu hết là các láng
giềng của ta ngày ấy, như Cao mên, Lào
(Lèo) [...]; một ít xứ xa hơn được kể tên là Ma ní, Malacca [...].
Hầu hết
các địa danh đều được giải nghĩa rất ngắn gọn, thường chỉ cho biết chúng nằm ở
đâu vậy thôi, chứ không mô tả chi tiết. [...]
Nhưng có
lẽ điểm đặc sắc đáng kể và lý thú nhất là soạn giả đã cho biết rõ lý do tại sao
một số địa danh lại có tên gọi như thế. Vài thí dụ:
Ba động: tên cửa biển ở về tỉnh Vĩnh long. Tên chỗ có ba hòn
động ở tại tỉnh Bình thuận, trên có miễu bà chúa Ngọc [q. I, tr. 322, c. 2, h.
21-23].
Bến nghé: bến ở tại vàm sông kinh vào Chợ lớn, cũng hiểu chung là
đất Bến thành; có kẻ nói là bến tắm trâu, có kẻ nói là vùng sấu ở, không lấy
đâu làm chắc [q. I, tr. 47, c. 1, h. 16-17]
Bình di: tên đồn ở về tỉnh An giang, cũng có nghĩa là làm cho
mọi yên [q. I, tr. 231, c. 1, h. 18-19].
Cầu Thị nghè: tên cầu qua làng Phú mĩ, ở gần thành cũ Gia định, lấy
tước một bà làm nên cầu ấy mà đặt [q. II, tr. 389, c. 1, h. 36-38].
Cù lao phố: cù lao lớn ở tại tỉnh Biên hòa, nguyên là chỗ có nhiều
phố xá, cũng gọi là Đông phố, chỉ nghĩa là phố bên đông [q. II, tr. 200, c. 2,
h. 3-6].
Cữa thuận: xưa là cữa eo, người ta không muốn cho nó eo, thì cải
là cữa thuận, chính là cữa kinh đô nước Đại nam [q. II, tr. 420, c. 1, h. 17-19].
Chợ đũi: tên chợ, nguyên là chỗ hay bán đũi, dệt đũi [q. I, tr.
331, c. 1, h. 36-37].
Giếng bộng: tên xứ về hạt Phước tuy, thuở xưa ở đó có cái giếng
bằng bộng cây [q. I, tr. 73, c. 1, h. 36-37].
Núi Chiêng Bà đen: tên núi ở phủ Tây ninh, tỉnh Gia định, trên có chùa thờ
bà thần tên là Đen [q. I, tr. 19, c. 1, h. 36-37].
Ngự bình: hòn núi ở tại thành đô Annam, giống cái bình phong [q.
I, tr. 59, c. 2, h. 15-16].
Trảng bàng: tên trảng có nhiều cỏ bàng, về hạt Tây ninh [q. I, tr.
33, c. 1, h. 17-18].
NHỮNG CHỮ CÓ NGUỒN GỐC NGOẠI LAI
Từ có
gốc phương Tây rất ít, vì đến thế kỷ XIX, ảnh hưởng của ngôn ngữ phương Tây đối
với tiếng Việt vẫn còn chưa đáng kể. Suốt bộ tự điển chỉ tìm thấy một vài chữ
như: Kim kê na: thuốc rét rất đắng
chế ra như bột. (Quinquina) [q. I, tr. 469, c. 2, h. 7-8]; Ma tà: lính canh tuần. (Tiếng Malais, kêu theo đã quen) [q. II, tr.
1, h. 14-15].
Trái
lại, có nhiều tiếng do ảnh hưởng của tiếng Hoa (với phương ngữ Triều Châu, tức
quen gọi tiếng Tiều) và tiếng Campuchia. [...]
Những
tiếng mà soạn giả cho là gốc ở tiếng Campuchia [...].
Ngoài
ra, còn có những tiếng có lẽ cũng gốc Campuchia, mặc dù tác giả không ghi rõ là
“tiếng Cao mên” như ở những chỗ khác[...].
CÁCH VIẾT CHỮ NÔM
TRONG ĐẠI NAM QUẤC ÂM TỰ VỊ
Trong Đại Nam Quấc
Âm Tự Vị, có khá nhiều chữ Nôm thuộc loại giả tá, nhưng Huình Tịnh Của dùng
chữ 口 để ghi âm (không dùng cái “nháy nháy” đặt ở góc trên
bên mặt chữ Nôm). Chữ khẩu nhỏ đặt ở góc trên bên trái chữ Hán dùng để chỉ tỏ
âm chữ Nôm đó hơi khác với âm Hán Việt. [...].
Vì không theo một nguyên tắc nào nhất định, nên nhiều
chữ Nôm trong Đại Nam Quấc Âm Tự Vị viết
không giống với chữ Nôm ở trong các bộ tự điển tiêu biểu khác như Dictionarium Annamitico Latium của
Taberd, Dictionnaire Annamite Francais
của J.F.M. Génibrel, và Dictionnaire
Annamite- Francais của Jean Bonet. […].
“Số chữ viết khác nầy rất nhiều, có đến ngót mấy ngàn
chữ, […]. Chính sự viết chữ Nôm khác biệt của Huình Tịnh Của, hay nói đúng ra
là của các áng văn chữ Nôm thời mà ông đã theo đó ghi vào tự điển của ông, sẽ
giúp cho các nhà ngôn ngữ học nghiên cứu chữ Nôm đưa ra được nhiều nhận xét đặc
biệt về cách cấu tạo của thứ văn tự nầy.” (Nguyễn Văn Y, tiểu luận đã
dẫn, tr. 89-90.)
*
Hoạt động cùng thời với Trương Vĩnh Ký
(1837-1898), Trương Minh Ký (1855-1900), Huình Tịnh Của là một trong những nhà
văn, nhà báo Quốc Ngữ tiền phong của nước ta vào khoảng cuối thế kỷ XIX, đã có
những đóng góp quan trọng trên nhiều lĩnh vực nghiên cứu ngôn ngữ, văn chương,
văn hóa Việt, mà công lao đáng kể, mang lại giá trị lâu bền nhất, có lẽ chính
là bộ Đại Nam Quấc Âm Tự Vị như trên
chúng ta đã khảo sát, đánh giá tương đối đầy đủ. Ông hiệu Tịnh Trai, nên còn
quen gọi Huình Tịnh Trai, cũng thường ký bút danh Paulus Của khi viết báo
(Paulus là tên Thánh).([13]) Sinh năm Canh Dần (1830) tại làng Phước Tụy, tổng Phước
Hưng Hạ, tỉnh Bà Rịa (nay thuộc tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu),([14])
mất ngày 26-01-1908.
Nhờ học trường đạo nên ông rất giỏi Pháp
văn và chữ Latin, còn về chữ Hán thì phải nhờ Tôn Thọ Tường [1825-1877] chỉ vẽ
thêm.([15])
Theo đạo Kitô, năm mười hai tuổi được đưa sang học một trường đạo ở Pulo
Pinang, phía Tây Bắc Malaysia.
Khi học đạo lên đến chức “Thầy tư” thì
hoàn tục, trở về quê cưới vợ.
Năm 1862, sau khi Pháp chiếm ba tỉnh miền
Đông Nam Kỳ, ông bắt đầu giúp việc cho nhà nước thuộc địa, làm thông ngôn, rồi
lãnh việc phiên dịch văn án trong cơ quan Bureau
des Traductions à la Direction de l’Intérieur de Saigon (sau đổi tên là Direction du Service local: Phòng Phiên
Dịch Dinh Thượng Thơ Sài Gòn). Năm 1865, Huình Tịnh Của được biệt phái về làm
việc ở Bộ Tổng Tham Mưu (Etat Major
général).
Ngày 01-01-1873, ông được thăng chức
Huyện đệ nhất hạng (Huyện de première
classe), đến làm việc tại Phòng Phiên Dịch Dinh Thượng Thơ (Direction de l’Intérieur, sau đổi tên là Bureaux
du Gouvernement de la Cochinchine).
Ngày 01-01-1881, thăng chức Phủ đệ nhị hạng (Phủ de deuxième classe). Ngày 01-8-1884, lại thăng Phủ đệ nhất hạng
(Phủ de première classe) và được bổ
làm Đốc Phủ Sứ ngoại ngạch (hors cadre).
Năm 1892, Huình Tịnh Của được chọn làm
hội viên của Ủy Ban Cải Tổ Trường Thông Ngôn (member de la Commission de Réorganisation
du Collège des Interprètes). Ông còn có chân trong ban biên tập (comité de rédaction) bán nguyệt san Revue Indochinoise (1893-1925), một tạp chí rất có giá trị chuyên
nghiên cứu về Đông Dương.
Nhiều lần ông được mời làm giám khảo
trong các cuộc thi do Pháp tổ chức để chấm môn Việt Văn và Hán Văn.
Huình Tịnh Của là một trong những người
Việt Nam đầu tiên khởi xướng phong trào báo chí Quốc Ngữ ở nước ta.([16])
Ông cùng với Trương Vĩnh Ký tham gia sáng lập tờ Gia Định Báo, có nhiều bài viết từ những số đầu tiên năm 1865, giữ
việc biên tập liên tiếp nhiều năm cho tờ báo Quốc Ngữ đầu tiên này, và đã tỏ ra
xuất sắc trong những bài khảo cứu về các cổ tích, khoa học phổ thông, sưu tập
thi ca cũ, cũng như phiên dịch các bài diễn văn, nghị định, công văn bằng tiếng
Pháp ra tiếng Việt.
Huình Tịnh Của cũng là người đầu tiên
biên soạn bộ tự điển đơn ngữ giải thích tiếng Việt, đã “vượt xa hơn cái việc
trực tiếp phục vụ chính quyền pháp mà biểu lộ cái ý thức của tác giả muốn
‘chuẩn thằng hóa tiếng Việt’”. (Địa Chí
Văn Hóa Thành Phố Hồ Chí Minh, Tập II. Nxb TpHCM, 1988.)
Ông là người chịu ảnh hưởng Tây Phương,
đã tích cực viết sách viết báo, biên soạn tự điển, đã cùng với Trương Vĩnh Ký
cổ động việc dùng chữ Quốc Ngữ viết theo mẫu tự Latin, tỏ rõ là một người yêu
chuộng văn hóa dân tộc, biết giữ gìn, khai thác những di sản văn hóa - tinh
thần của cổ nhân để lại bằng cách nỗ lực phiên âm, phổ biến những áng văn xưa
của người Việt.
Trong cuộc đời công chức, ông được ban
thưởng các huy chương: Đại Nam Hàn Lâm Viện Trực Học Sĩ (Médaille d’Officier de Dragon d’Annam), Đại Pháp Hàn Lâm Kim Diệp (Médaille d’Officier d’Académie), Ngũ Đẳng
Bắc Đẩu Bội Tinh (Chevalier de la Légion
d’Honneur), và Kim Khánh Cao Miên (Officier
de l’Ordre royal du Cambodge).
Mặc dầu được nhà nước Pháp trọng đãi, ông
vẫn luôn tỏ ra là một người khiêm tốn, giản dị, có cuộc sống thanh bần. Theo
Nguyễn Liên Phong [1821-?] trong Điếu Cổ
Hạ Kim Thi Tập, ông là người “hình dung nho nhã, tánh nết cẩn thận hiền
lành (...), đã quá tuổi hưu trí mà nhà nước đoái tưởng ngài tuổi lớn nhà nghèo,
cho làm luôn”. (Dẫn lại theo Nguyễn Văn Y, tiểu luận đã dẫn, tr. 14.)
Ngoài Đại
Nam Quấc Âm Tự Vị được coi là công trình lớn đáng kể nhất, Huình Tịnh Của
còn là tác giả, dịch giả của nhiều tác phẩm khác, chia làm hai loại chính: sưu
tập - biên khảo, phiên âm - chú thích. Có thể liệt kê theo thứ tự thời gian như
sau:
2. Chuyện
Giải Buồn rút trong các sách hay, để giúp trong các trường học cùng những người
học tiếng Annam .
Sài Gòn: Bản in Quản Hạt, in lần thứ hai, 1886, 100 + 3 trang.
3. Chuyện
Giải Buồn cuốn sau dịch rút trong các sách hay, lại phụ các án tấu, án đoán
quan Annam làm, lập lời nói trang nhã, lịch sự, để giúp trong các trường học
cùng giúp cho các người học tiếng Annam. Sài Gòn: Nhà in Rey et Curiol, 1886, 96 trang.
4. Sách Bác Học Sơ Giai (Simples lectures sur
diverses sciences). Sài Gòn: Nhà in Rey et Curiol, 1887, 248 trang.([18])
5. Sách Quan Chế. Sài
Gòn: Bản in nhà nước, 1888, 94 trang.
6. Tục
Ngữ, Cổ Ngữ, Gia Ngôn. Sài Gòn:
Imprimerie & Librairie Nouvelles Claude & Cie, 1896, 94 trang.([19])
7. Quan
Âm Diễn Ca. Sài Gòn: Nhà in Xưa Nay, in lần thứ ba, 1898, 32 trang.
8. Gia Lễ. Sài Gòn: Imprimerie Commerciale
Ménard & Rey, in lần thứ hai, 1904, 52 trang.
9. Phép Đo (Arpentage). Sài Gòn: Imprimerie
& Librairie Nouvelles Claude et Cie, 1905, 78 trang.
12. Lang Châu Toàn Truyện. Bổn cũ sửa lại.
Sài Gòn: Imprimerie Commerciale Ménard et
Rey, 1905, 38 trang.
13. Văn Doan
Diễn Ca. Sài Gòn: Coudurier
& Montégout. Sài Gòn: Imprimeurs-Editeurs, 1906, 100 trang.
14. Bạch Viên Tôn Các Truyện. Phụ Chinh Phụ Ngâm.
Bổn cũ dọn lại. Sài Gòn: Imprimerie Commerciale, 1906, 36 trang.
15. Chiêu Quân Cống Hồ. Bổn cũ dọn lại. Sài
Gòn: Imprimerie Commerciale, in lần thứ hai, 1906, 40 trang.
16. Ca Trù Thể Cách.
Sài Gòn: Imprimerie Commerciale
Mercellin Rey, 1907, 40 trang.
17. Tống Tử Vưu Truyện. Bổn cũ dọn lại. Sài Gòn: Imprimerie Commerciale, 1904, 32 trang;
Sài Gòn: Imprimerie Commerciale, in lần thứ tư, 1907, 30 trang.
18. Thoại Khanh Châu Tuấn. Bổn cũ dọn lại. Sài
Gòn: Imprimerie Commerciale, 1908, 28 trang; Sài Gòn: Nhà in Xưa Nay, in lần
thứ sáu, 1929, 22 trang.
19. Câu Hát Góp (Recueil de Chansons populaires).
Sài Gòn: Impr. Commerciale Ménard Legros, 1901, 32 trang; Sài Gòn: Phát Toán, in
lần thứ tư, 1910, 32 trang.
Ngoài
ra, Huình Tịnh Của còn một số tác phẩm khác nữa, thấy giới thiệu trên các bìa
sách đã xuất bản của ông: Phép Toán
(Arithmétique); Tam Soạn Tư Hạt Nhựt
Xấp (Recueil des Formules annamites).([22])
Thanh Lãng, trong Bảng Lược Đồ Văn Học Việt
Nam, Quyển Hạ (Sài Gòn: Trình Bày, 1967, tr. 21), có ghi Huình Tịnh Của là
tác giả của Vãn Cha Minh Và Lái Gẫm.
André Baudrit, trong Guide historique des
Rues de Saigon, ghi ông còn soạn quyển Catéchismes
(Saigon, 1885), và dịch nhiều truyện Tàu ra Quốc Ngữ.
TRẦN VĂN CHÁNH
([1]) Huình Tịnh Của không độc lực làm việc mà còn có vài người
nữa đã âm thầm giúp sức cho ông trong quá trình biên soạn Đại Nam
Quấc Âm Tự Vị, nhưng những người này không được ghi tên chung trên bìa
sách, cũng không thấy ông nhắc tới trong bài “Tiểu tự”. Điều này đã được tác
giả Nguyễn Văn Y chứng minh một cách khá thuyết phục căn cứ vào tính thiếu nhất
trí của toàn bộ công trình. […] (Theo Nguyễn Văn Y, Huình Tịnh Của Và Công Trình Đại Nam Quấc Âm Từ Vị, tiểu luận cao
học ngữ học của trường Đại Học Văn Khoa Sài Gòn, chương XII, tr. 131-135.)
([2])
Trước khi quyển tự vị của Huình Tịnh Của ra đời, nước ta chưa có quyển tự điển
nào giải nghĩa tiếng Việt bằng tiếng Việt. Mãi đến năm 1931 mới có một quyển tự
điển tiếng Việt thứ hai, đó là Việt Nam
Tự Điển do Hội Khai Trí Tiến Đức khởi thảo (Hà Nội: Imprimerie Trung Bắc
Tân Văn). Hầu hết các bộ tự điển từ thời Alexandre de Rhodes với bộ Dictionarium Annamiticum, Lusitanum et Latinum (Tự Điển Việt-Bồ-La, 1651)
cho đến hậu bán thế kỷ XIX chỉ là những tự vị song ngữ (hoặc Việt Latin, hoặc
Việt Pháp), tiêu biểu có thể kể những cuốn đã xuất hiện trước hoặc gần như đồng
thời với Đại Nam Quấc Âm Tự Vị: Dictionarium
Annamiticum Latium của Pigneau de
Béhaine (1772); Dictionarium Annamiticum
Latium của Pigneau de Béhaine (1772);
Dictionarium Annamitico Latium của Taberd (1838); Dictionarium Annamiticum Latium của Theurel (1877); Dictionnaire Annamite Français của J.
F. M. Génibrel (1898); Dictionnaire
Annamite-Français của Jean Bonet (1899).
([3]) Việc in ấn cũng gặp nhiều khó khăn trở ngại. Theo Phạm Long
Điền (Sài Gòn: Tạp chí Bách Khoa, số
417, năm 1974): “Trong phiên họp ngày 11-01-1897 (?), Hội Đồng Quản Hạt nhóm
bàn nên hay không nên chi tiền tài trợ cho bộ Đại Nam
Quấc Âm Tự Vị. Cuộc tranh luận thật sôi nổi. Một hội viên người Pháp hống
hách lớn tiếng nói: Nhà nước không có mướn ông Phủ Của làm tự điển loại ấy, nếu
Ông có làm thì đó là ý kiến cá nhân thôi...”. Theo Ông Nguyễn Văn Quan (Tạp chí
Kiến Thức Ngày Nay, số 634, năm
2008): “Bộ tự vị này đã được một ủy ban đặc biệt khảo sát với thành phần gồm
các ông Narville, Rossigneux, Thirode và Petrus Ký. Mọi người đồng ý nhìn nhận:
Đây là một tác phẩm có giá trị lớn lao, thật hữu dụng, và việc phổ biến nó
không những mang lại danh dự cho nhà nước mà còn cho cả tác giả nữa. Nhưng số
tiền chi quá lớn nên đề nghị Hội Đồng Quản Hạt quyết định... Và Hội Đồng Quản
Hạt chấp nhận chi 6.400 đồng để in 1.000 quyển Đại Nam Quốc Âm Tự Vị của Paulus Của và tặng tác giả 1.000 đồng.
Nhưng mãi đến tháng 10-1895 mới in xong.” (Dẫn lại theo bài “Từ Điển Việt Nam
Xưa Và Nay”, sachxua.net/forum/ban-tron-van-hoc-lich-su-van.../tu-dien-viet-nam
-xua-va-nay/).
([4]) Cấu trúc vi mô là cấu trúc của các mục từ. “Mục từ cung cấp
tri thức về từng đơn vị của bảng từ (cấu trúc vĩ mô), qua giải thích nghĩa và
những chú thích về chính tả, ngữ âm, ngữ pháp, từ nguyên, phạm vi sử dụng, khả
năng tổ hợp, v.v... của từ ngữ, những chú thích về quan hệ của từ ngữ trong hệ
thống từ vựng-ngữ nghĩa (quan hệ đồng âm, đồng nghĩa, trái nghĩa…), và qua
những thí dụ minh họa” (xem Hoàng Phê và Nguyễn Ngọc Trâm, “Một Số Vấn Đề Từ
Điển Học”, trong Một Số Vấn Đề Từ Điển
Học. Hà Nội: Nxb Khoa Học Xã Hội, 1977, tr. 11-16.)
([14]) Làng Phước Tụy là
nơi Huình Tịnh Của được sinh ra. Còn
quê gốc ông lại là làng Phước Thọ, tổng Phước Hưng Hạ, huyện Phước An, tỉnh
Biên Hòa, tức xã Phước Long Thọ, huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu ngày nay.
Làng Phước Tụy cũng thuộc tổng Phước Hưng Hạ, nằm cạnh làng Phước Thọ (xem Đoàn
Lê Giang, “Những Vấn Đề Về Tiểu Sử Huình Tịnh Của”. Tạp chí Xưa & Nay, số 472, tháng 6-2016, tr.
25.)
([15]) “Chính ông Paulus Huình Tịnh Của đã nhờ Tôn [Thọ Tường] giúp
sức trong việc tập rèn khoa chữ Hán” (Khuông Việt, Tôn Thọ Tường Một Danh Sĩ Đất Đồng Nai. Hà Nội: Ngày Nay, 1941, tr.
65. Dẫn lại theo Trần Nhật Vy, “Nhà báo Huình Tịnh Của”, sách chuyên đề Suối Nguồn, Tập 18, tháng 8-2015, tr.
169.)
([17]) Về sách này, đây dẫn theo Nguyễn Văn Y (tiểu
luận đã dẫn, tr. 16). Nhưng theo Đoàn Lê
Giang thì có sự nhầm lẫn: Huình Tịnh Của không có riêng quyển Maximes et Proverbes, mà sách này chính
cũng là quyển Tục Ngữ, Cổ Ngữ, Gia Ngôn.
Sở dĩ có sự lầm lẫn ấy là vì trang bìa sách in cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
thường ghi hai, ba thứ chữ Việt, Pháp, Hán. Nguyên văn trang bìa sách này ghi:
“俗語古語嘉言 – Tục Ngữ, Cổ Ngữ, Gia Ngôn - Maximes et Proverbes – par
Paulus Của Huình-Tịnh Đốc Phủ Sứ - Sài Gòn, Imprimerie & Librairie
Nouvelles Claude & Cie, 1896” (“Những Vấn Đề Về Tiểu Sử Huình Tịnh Của”
[tiếp theo bài trước], Tạp chí Xưa &
Nay, số 473, tháng 7-2016, tr. 42). Tuy thuyết của tác giả Đoàn Lê Giang
nói thế, và có in cả hình bìa cuốn sách để chứng minh, nhưng chúng tôi vẫn còn
nghi hoặc, vì không có sẵn đủ tài liệu trong tay để dẫn chứng (biết đâu vẫn có
riêng sách Maximes et Proverbes in
năm 1882, như vài nhà nghiên cứu về Huình Tịnh Của đã ghi).