Thánh giáo
ĐƯỜNG DÀI PHẢI LẬP CHÍ
Trung Hưng Bửu Tòa (Đà Nẵng)
ngày 22-7 Tân Sửu (Thứ Sáu 01-9-1961)
THI
BẢO bảo anh em cẩn thận nhiều
THỌ truyền bí pháp phải cao siêu ([1])
THÁNH Thần mới được ơn Thần Thánh ([2])
NƯƠNG náu chờ xin Ngọc Khuyết triều.([3])
Chào chư vị.
Bước đường sứ mạng, nguyên căn ([4]) lúc nào cũng để tâm nghĩ đến. Cần
xốc gánh lên đường, phải xứng một Thiên Thần mới đủ tư cách gieo truyền cơ cứu
rỗi. Vì thế mà người có thiện căn ([5]) luôn luôn nghĩ tới sự tu để đạt đạo,
làm nòng cốt cho con người.
Những người đạt nhân quân tử ([6]) lúc nào cũng trông xa nghĩ rộng mà
đặt vấn đề cả cho mình và cho mọi người đồng thi hành trên phương diện đó. Không
vì hoàn cảnh thôi thúc, ý người đòi hỏi, mà mình phải vội vàng làm những việc
không đầu không cuối, mà luôn luôn đo đắn dặt dè. Một lời nói, một nhích chân
phải được lợi sanh, lợi kỷ.([7])
Mẫu mực là mình. Mình là phép tắc đấy, đạo đức đấy, Thánh Thần đấy, quyền
pháp đấy, mà sứ mạng trung hưng cũng đấy. Nên người quân tử nhắm vào xa xăm,
trông vào hiện tại mà đặt chương trình. Đâu phải thấy đây mà không xem đó. Hơn
nữa, vạn thế sự nghiệp ([8]) cốt ở đạo đức, mà đạo đức hiển hiện
phải ở nơi người có lòng cầu học hiểu, có chí siêng cần ([9]) tu học dồi mài, có sự giác ngộ
thường xuyên mới thấu cơ mầu nhiệm.
Nên chư vị hôm nay dự định lên đường giải thoát cần được chuẩn bị nhiều
ngày. Một lần bước ra là một khi đã hòa đồng cùng pháp đạo, nhất trí cùng Thầy.
Đâu phải một sớm một
chiều, nay cầu mai lạy cho rồi.
Làm Thánh làm Hiền không dễ. Bất cứ ai có chí thì nên, có bền thì được. Dùng
chước thì hư, dụng khôn ngoan trăm lần thất bại. Bởi vậy, Thánh xưa vất trí phế
tài,([10]) vắng lặng ở một nơi. Đức đủ, đạo
thành, ngày ấy sẽ ra đời mà lấy thân gánh vác.
Trên bước đường tu học lấy đạo Thần Tiên, các vị là bậc hướng đạo Thiên
ân, lại còn thiết tha thầm nghĩ, ta hứa với lòng ta để ta đủ can trường mà làm
xong con người giải thoát.
Đường dài phải lập chí ([11]) mới đến nơi. Phương
chi hôm nay bối cảnh quanh mình, thấy bao kẻ chết người đau. Muốn cứu đau ngăn
chết là phải có pháp thần thuốc thánh, đức cả tài cao. Mà cảnh khổ diễn tiến
mỗi ngày, ta chỉ một thân, lòng không yên nổi. Chạy đường này qua ngõ nọ, tay
rờ miệng nói, mãi cứ lăng xăng mà kẻ chết cứ chết, người đau vẫn đau, rồi trách
Trời giận mình, mới toan đi vào núi tìm thầy học pháp hồi sinh. Học một năm
biết chừng vài món, thấy tuy chưa đủ mà sự việc cũng cần, rồi xuống núi cứu đời.
Pháp ấy tuy hay nhưng khó ngăn họa lớn. Mà người ấy gọi là người có lòng
biết lo, có công vị tha xá kỷ.([12]) Nhưng lòng ấy cũng là hại đời, lòng
không lượng được việc làm. Lo như thế thà ngồi không mà đờn ca hơn là phí ngày giờ. Mà không khéo
lại như kéo người đui tu theo thầy mù.
Người quân tử với kẻ tiểu nhân đồng làm, đồng nói, đồng lo nhưng hai
đường mỗi bên đều khác hẳn. Nên ngay bây giờ, các vị đã nhận thức kỹ càng: Trái
lúc non thì chát, lúc dày thì chua, lúc muồi thì ngọt. Cũng như người tu, biết
Đạo không bằng yêu Đạo. Phải trầm tĩnh, nhất tâm, đi cho đến nơi, làm cho rồi
việc. Nghĩa là các vị đã có lòng muốn tu theo đạo Thần Tiên thì đặt mình trên
sự vô vi, thanh tịnh.
Cái công thành tựu của ngày mai là cái ý nghĩa việc làm lúc bây giờ. Cái
nhân tạo lập đúng đắn thì cái quả kết thành mới được tốt lành.
Muốn tu, ta là người học trò cứ làm theo ý Thầy, nghe theo lời Thầy. Đâu để cho lòng mình đòi hỏi nơi Thầy việc nọ việc kia. Mà hễ [làm] người
đệ tử [thì phải] tâm tròn hạnh xứng. Đã tròn thì tự nhiên được lặng,([13]) xứng thì tự nhiên được đậu, lo gì
nghĩ gì cho mệt nhọc. Đã đặt mình tu theo đây, học với đây, ngó nghe vào đây mà
hành sự.
Nhất trí cùng Thượng Đế thì tâm ta và bản thể ([14]) đồng nhất. Đã đồng nhất thì nhất
động nhất tịnh, khi vi khi hiển ([15]) của Trời có chỗ nào mà ta không
biết.
Muốn đồng nhất cùng Trời là trước phải dẹp lần tình nghĩa cỏn con, lợi
danh nhỏ hẹp, ân ái thấp thường để lòng được lặng trong, người không nghĩ hơn
nghĩ thiệt. Có vậy, luyện pháp mới linh, nấu đơn mới thành. Ai là người làm
được? Chính là người giác ngộ vậy.
Còn việc tu, hễ còn tu là còn khảo. Khảo
biết đâu là phần thưởng thiêng liêng, mà biết đâu là phần phạt hữu hình. Nếu nó
là phần phạt mà vui nghe thì phạt kia là thưởng đó.
BÀI
Hồng ân đâu có riêng ai
Ai người biết được chiều mai đợi chờ
Hễ là quân tử tri cơ ([16])
Đừng màng danh lợi, đừng mơ ảo huyền.
Muốn tu thành Phật thành Tiên
Sửa lòng cho chính, cho chuyên tịnh hành ([17])
Trông vào lòng chẳng mỏng manh
Trông ra mình được Trời dành một nơi.
Mặc người bay nhảy đua bơi
Ta còn thiếu đức, thiếu hơi, thiếu tài
Lo tu chứng ngộ Cao Đài
Kiếp này có trễ, kiếp mai thi
hành.
Kiếp này quả đạo
được thành
Đương vi ([18]) xốc
gánh quần sanh một thời
Nếu thành, chưa lập ra đời ([19])
Thì về Thiên quốc chầu Trời cũng vui.
Phiền gì tính tới tính lui
Miễn cho việc của Trời người được xong
Dầu mà mình có cùng không ([20])
Đâu đòi đâu hỏi cho lòng sân si.
Lòng tu nào có muốn chi
Thân tu ta đã quy y lâu rồi
Có gì còn gọi là tôi.([21])
Thăng.
PHỤ ĐÍNH: Đạt nhân quân tử
1. Ngày nay, hai chữ đạt
nhân được người Hoa dùng theo
nghĩa: a/ Người thông đạt lý sự 通達事理, biết lý lẽ phải trái (reasonable); b/ Người suy nghĩ lạc quan (tư tưởng lạc quan 思想樂觀; optimistic),
khoáng đạt (khai lãng 開朗: open-minded); c/ Cao thủ 高手
(expert) trong một lãnh vực chuyên
môn. Tuy nhiên, cả ba nghĩa này đều không áp dụng vào lời dạy của Đức Bảo Thọ
Thánh Nương.
2. Đạt nhân quân tử 達人君子 (the superior man helping others succeed like
himself) nghĩa là bậc quân tử biết mưu cầu sự thành đạt cho người khác cũng
như mình thành đạt.
Chữ nhân 人 này là con người (humans),
không phải là đức nhân 仁, nhân ái 仁愛 (benevolence). Chữ đạt 達 này là nghĩa
là thành đạt, thành tựu, thành công (succeeding,
successful). Đạt nhân nghĩa là
giúp cho người khác thành công cũng như mình thành công.
Đạt nhân nguyên là lời Đức Khổng Tử dạy ông
Tử Cống về hạnh của Thánh Nhân và của người có lòng nhân ái, được chép trong Luận Ngữ (6:30):
(K)ỷ dục lập nhi lập nhân; kỷ dục đạt
nhi đạt nhân. 己欲立而立人, 己欲達而達人. Muốn tạo lập cho mình thì cũng tạo
lập cho người khác; muốn mình thành đạt thì cũng giúp người khác thành đạt. (He who wishes himself to be established sees
that others are established; and he who wishes himself to be successful sees
that others are successful.)
Ý nghĩa đạt nhân vô cùng cao
quý như thế còn được Đức Bảo Thọ Thánh Nương hàm ngụ ở hai câu này:
– (L)úc nào cũng trông xa nghĩ rộng
mà đặt vấn đề cả cho mình và cho mọi người đồng thi hành trên
phương diện đó.
– Một lời nói, một nhích chân phải
được lợi sanh, lợi kỷ.
Lợi kỷ 利己 là ích lợi cho bản thân (advantageous to oneself). Lợi
sanh 利生 là ích lợi cho chúng sanh (advantageous to other people).
Đức Thích Ca thành Phật rồi, lại khuyên người đời hãy biết tu để thành
Phật giống như Ngài: Ta là Phật đã thành,
các người là Phật đang thành. 我已成佛, 汝當成佛. Ngã dĩ thành Phật, nhữ đương thành Phật. Đó là tấm lòng đạt nhân quân tử.
Các bậc Tiên Thánh vì không quản ngại cõi trần ô trược, không chán ngán người
trần lì lợm khó dạy, nên cứ mãi giáng cơ uốn nắn, bảo ban, rèn luyện phàm nhân
từng ly từng tý chỉ cốt mong sao kẻ phàm phu tục tử cũng trở thành Tiên Thánh
như các vị. Đó là tấm lòng đạt nhân quân
tử.
Nói tới Phật hay Tiên Thánh thì có cao quá chăng? Hay là nói thấp hơn tầm
mức đó là tình đồng đạo Kỳ Ba.
Thật vậy, môn sanh Cao Đài hầu như thâm tâm ai ai cũng muốn lúc mình qua
đời thì được lo liệu cho phần hậu sự chu đáo, ấm cúng. Phần mình chưa tới,
nhưng khi đồng đạo mãn phần thì họ đạo, đồng môn lớn bé trẻ già cùng xúm nhau
lại, chăm lo miễn phí mà hết lòng tận tụy từ khi làm các bí tích lúc vừa tắt
thở, nhập quan, lễ tang, an táng, chín tuần cửu, cho đến tiểu và đại tường. Như
thế cũng là đạt nhân quân tử đấy thôi.
HUỆ KHẢI
([1]) Câu
này ý nói: Người truyền thụ (chỉ dạy) bí pháp phải là người cao siêu (tức là minh
sư 明師: thầy đã đắc đạo). – thọ truyền (truyền
thụ 傳授: teaching): Truyền dạy. – bí pháp 秘法 (secret method of
inner self-cultivation): Phương pháp tu luyện chỉ truyền riêng cho người được
tuyển chọn, không dạy rộng rãi.
([2]) Câu này ý nói: Nếu
có được những đức tánh tốt đẹp như các Đấng thiêng liêng chỉ dẫn thì con người
mới xứng đáng thọ nhận ơn huệ của các Đấng thiêng liêng.
([3]) Câu này ý nói: Hãy
nương náu trong chánh đạo tu hành, chờ ngày đắc đạo được về chầu Thượng Đế. – Ngọc
Khuyết 玉闕: (the Jade Emperor’s Palace) Tức là Huỳnh Kim Khuyết 黃金闕, ám chỉ cung điện của Thượng Đế. – triều 朝 (paying homage to):
Triều kính, chầu (Thượng Đế).
([4]) nguyên
căn 原根 (original root person): Đồng nghĩa nguyên khách 原客 (original guest),
nguyên nhân 原人 (original human),
tức là linh căn 靈根 có nguồn gốc trên cõi trời, xưa kia nhận lãnh sứ mạng xuống
thế gian độ đời; khác với hóa nhân (nhơn)
化人 (transformed human)
là người vốn từ kim thạch, thảo mộc, cầm thú tiến hóa lên.
([5]) thiện căn 善根 (root of goodness): Căn lành, cái gốc rễ
tốt lành. Không tham, không sân, không si (vô
tham, vô sân, vô si 無貪, 無瞋, 無癡) là tam thiện căn 三善根. Tham sân si là tam bất thiện căn 三不善根. Người có thiện căn thấy cái ác thì không chịu nổi (bất nhẫn 不忍), nghe nói đến Trời Phật thì tin kính.
([7]) lợi sanh, lợi kỷ: 利生利己 (advantageous to others as well as
advantageous to oneself): Ích lợi cho chúng sanh cũng như ích lợi cho bản
thân.
([14]) bản thể 本體 (substance,
being): Cái tự nó tồn tại, đối lập với hiện
tượng (phenomena). Thượng Đế là
Đại Linh Quang; con người là tiểu linh quang. Bản thể của con người là Thượng
Đế. Chỗ đồng thể giữa Trời và người là linh quang. Đức Chí Tôn dạy: Con là một thiêng liêng tại thế / Cùng với
Thầy đồng thể linh quang. (Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam,
14-01 Bính Ngọ, Thứ Năm 03-02-1966)
([16]) tri cơ 知幾 (knowing
the minutest sign): Biết được cái triệu chứng (mầm mống nhỏ nhặt mới vừa hiện ra), từ đó hiểu
được tình thế sẽ diễn biến ra sao mà chọn cho mình một thái độ, một cách hành xử
tốt nhất. Khi Đức Khổng Tử đang làm tư khấu kiêm tể tướng nước Lỗ thì nước Tề tặng
nước Lỗ một ban nữ nhạc, khiến cho vua Lỗ say đắm, luôn ba ngày không ra ngự
triều. Đức Khổng bèn bỏ nước Lỗ, đi qua nước vệ. (Luận Ngữ, 18:4)