Thánh giáo
TU RỒI SỨ MẠNG LẠI TRAO
Trung Hưng Bửu Tòa (Đà
Nẵng)
ngày 11-01 Tân Sửu (Thứ Bảy 25-02-1961)
THI
ĐẠO Trời mầu nhiệm, gắng công tu
ĐỨC hạnh trò Tiên phải đứng đầu ([1])
CHƠN thật lòng rồi, ơn phước thấy ([2])
TIÊN Thần muốn đạt khó gì đâu.
BÀI
Ngày xuân dạo chốn trần gian
Nương cậy thần bút,([3]) giáng
đàn đề thi
Xuân về một lúc xuân đi
Gởi bao tươi đẹp, phương phi ([4]) cho
đời.
Muôn dân cùng chịu ơn Trời
Sống còn vui khổ, ta người có nhau ([5])
Người đau là tức mình đau
Có gì phân biệt với nhau rầy rà.([6])
Lo tu muôn việc
bỏ qua
Để lòng thanh tịnh giao hòa đón
ân ([7])
Có thân đừng nặng vì thân ([8])
Quên thân thì được thập phần ([9]) cao
sang.
Lo tu, ơn phước Thầy ban
Lo tu mới thấy niết bàn tại tâm ([10])
Mưu thâm thì họa cũng thâm
Thâm thâm nhiễm nhiễm, sanh tâm não phiền.([11])
Bây giờ cầu học
pháp Tiên
Dọn lòng trong sạch, Thầy truyền dạy cho
Dọn mình, mọi sự thôi lo
Dọn mình thanh tịnh như tro đã vùi.([12])
Tu rồi lòng chỉ
biết vui
Vui cho khỏe khoắn, đẩy lui trần
tình ([13])
Tu rồi mới thấu pháp linh ([14])
Ở trong miệng sói mà mình không sao.([15])
Tu rồi sứ mạng lại trao ([16])
Trao cho Hội Thánh ban rao pháp
quyền
Bây giờ Ta để lời khuyên
Sóng to gió dữ, vững thuyền vượt
qua.
Bên kia, bờ giác không xa
Lái lèo Thầy đã cho ta độ thuyền ([17])
Từ đây qua khỏi giang biên ([18])
Cũng năm ba hiệp đảo điên ba đào.([19])
Lạ gì sóng gió
xôn xao
Con thuyền rạch nước, sợ nào ([20]) không
đi
Nhắm về Nam, hướng cung Ly ([21])
Có Thầy có bạn, có kỳ mừng vui.
Ngược dòng
thuyền phải trôi lui
Trôi lui, đâu phải cho lùi về sau
Ngược dòng đâu dễ muốn mau ([22])
Ráng công chèo chống, trước sau mấy lèo.
Giang biên qua,([23]) khỏi
phải chèo
Khỏi rồi, buông lái thả lèo khỏe ru.
THI
Ru ru rủ rủ có
là ai
Ai biết Đạo mầu, luyện thánh thai
([24])
Thai tức ([25]) được
truyền ơn bố hóa
Hóa người phàm tục lại Thiên đài.([26])
Đài Cao có chỗ
ngự muôn quyền
Có chỗ Thầy trao pháp vạn duyên
Có đức có tài, khai phước huệ ([27])
Có gan,([28]) Thầy
sẽ dẫn về Tiên.
Thăng.
([1]) Câu
này ý nói: Là học trò Tiên thì đức hạnh phải trên hết. (Virtue is the first concern of every Caodai disciple.)
([2]) Câu này ý nói:
Người nào tu hành chơn thật sẽ được ơn phước Trời
ban cho. (Honest self-cultivators will receive Heaven’s blessing.)
([3]) thần bút 神筆 (wondrous means of invocation): Cơ
bút thần diệu. – nương cậy thần bút: phụ bút
附筆 (relying on a wondrous means
of invocation), nương nhờ vào cơ bút thần diệu.
([4]) phương phi 芳菲 (fragrant):
Thơm tho. (Người Việt thường dùng phương
phi để chỉ thân hình, mặt mũi béo tốt.)
([5]) Câu này ý nói:
Cuộc sống còn lẫn lộn khi vui lúc khổ, mọi người nên giúp đỡ lẫn nhau. (Because
life is not always happy, people should help one another.)
([7]) giao hòa (giao đối hòa ái 交對和藹: behaving cordially towards each other): Đối xử với
nhau thân thiện. – đón ân (expecting Heaven’s blessing): Chờ đón
nhận ơn Trời.
([10]) niết bàn tại tâm 涅槃在心 (nirvāṇa in mind;
free from passions and illusions): Phiền não không còn trong lòng.
([11]) não phiền (phiền não 煩惱: afflictions or
distress; passions and delusion or illusions): Phiền não là từ gọi chung những
gì làm cho tâm hồn rối loạn, buồn sầu, khổ não. Bất kỳ thứ gì tác động đến tâm
hồn, làm trở ngại sự tu tập để đạt được tâm thanh tịnh hay sự giác ngộ đều gọi
là phiền não. Vì bị mê lầm (ảo tưởng hay huyễn tưởng) chi phối, vì muốn thỏa
mãn ham muốn mà tâm hồn bị phiền não. Nếu căn cứ theo mặt chữ thì dịch phiền
não là afflictions, distress; căn cứ theo nghĩa nhà Phật thì dịch phiền
não là passions and delusion (illusions).
Trái nghĩa với phiền não là thanh tịnh
清淨 hay bồ đề 菩提 (bodhi). Tại Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt
([14]) thấu (thoroughly comprehending): Thấu suốt. – pháp linh (linh pháp 靈法: efficacious dharma): Pháp linh nghiệm.
([15]) Câu này ý nói:
Người chơn tu luôn được Thiêng liêng che chở dù cho gặp lúc tai nạn dẫy đầy.
Đức Vô Cực Từ Tôn dạy: Mẹ nhắc nhở các
con giữ chánh tâm hành chánh đạo thì sẽ luôn luôn sẵn có một khoảng
trống an lành sẵn dành cho các con trong cơ cộng nghiệp. (Cơ
Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam, 13-8 Kỷ Mùi, Thứ Tư 03-10-1979).
([17]) Câu này ý nói:
Thầy đã ban trao những bí quyết để tu hành hầu thoát khổ. – lèo lái (halyards and a rudder):
Dây lèo điều khiển cánh buồm và bánh lái
thuyền. – độ thuyền (độ mê hà thừa thuyền 渡迷河乘船: crossing
the river of delusion by boat): Dùng thuyền (đạo pháp) vượt qua sông
mê (cõi trần).
([19]) ba đào 波濤 (great waves,
billows): Ba là sóng, đào là sóng lớn. Gộp chung, ba đào là sóng lớn, sóng cồn.
([21]) Theo bát quái
hậu thiên, quẻ Ly 离 ở phương
([22]) Câu này ý nói:
Chèo thuyền ngược nước mà muốn di mau thì đâu dễ gì. Nghĩa bóng: Đường tu hành
phải nhẫn nại, kiên trì, không thể muốn sớm thành đạo mà được.
([24]) thánh thai 聖胎 (holy embryo):
Hình tượng trong phép tu Tiên. Theo Tiên
Học Từ Điển của Đới Nguyên Trường, thánh thai chỉ sự kết hợp chơn thần,
chơn khí; sau mười tháng thì có anh nhi
嬰兒, thêm ba năm bú
mớm (tam niên nhũ bộ 三年乳哺) nuôi anh nhi thì chứng Thiên Tiên, thêm chín năm ngó vách (cửu niên diện bích 九年面壁) thì chứng Kim
Tiên.
([25]) thai tức 胎息 (embryonic
breath): Hơi thở của bào thai. (Lúc còn trong bụng mẹ, thai thở mà không
dùng mũi và miệng.)