CON
NGƯỜI VÀ THỜI ÐẠI
NGUYỄN DUY CHÍNH
Trần vãn thử hà
thời, dục vịnh đại phi hiền giả lạc?
Phượng sơn tồn ẩn
xứ, trĩ lưu trường ngưỡng triết nhân phong.
(Cuối đời Trần là thời nào, ngâm vịnh rong chơi há chẳng phải là cái
thú vui của bậc hiền giả?
Núi Phượng vẫn còn dấu vết ở ẩn, đỉnh non vẫn mãi mãi
ngưỡng mộ phong thái của kẻ triết nhân.)
Câu
đối thờ
Hơn sáu trăm năm trước, nhà Nho Chu An 朱安 ([1]) đã một thời làm rạng
danh cho tầng lớp sĩ phu, nêu cao khí tiết và thể hiện tinh thần chính trực uy
vũ bất năng khuất. Trong khi chính sự suy đồi, tình thế nhiễu nhương, ông đã
hiên ngang dâng sớ xin chém bảy người nịnh thần, và khẳng khái từ quan khi
không được nhà vua chấp thuận. Ông trở về mở trường dạy học, mang cái phong vị
“giày cỏ, vớ gai” để truyền bá đạo lý thánh hiền.
Thân thế
Theo thiên Văn
Trinh Ngạnh Trực 文貞鯁直 trong Nam Ông Mộng Lục 南翁夢錄 thì ông “tính liêm khiết, cương
trực, ở nhà thì hết lòng học hành, học vấn tinh thông tiếng tăm lừng lẫy xa
gần” 性廉直剛介, 居家篤好讀書, 學業精醇, 名聞 遠近.([2])
Cứ theo sử cũ, thời
Trần nước ta có bốn học hiệu, có thể coi như bốn đại học quốc gia, gồm học hiệu
Trần Ích Tắc, học hiệu Thiên Trường, thư viện Lạn Kha và học hiệu Cung Hoàng
của Chu An. Cứ theo phỏng đoán, thư viện Lạn Kha trong núi Phật Tích có lẽ
thiên về Thiền Tông vì do triều đình thiết lập, học hiệu Trần Ích Tắc dành cho
vương tôn công tử và tôn thất nhà Trần, chỉ có hai học hiệu Thiên Trường và
Cung Hoàng mới thực sự là của dân gian.
Tác phẩm
Cho đến nay, người ta chỉ mới tìm thấy mười hai bài
thơ của
1. Nguyệt Tịch
Bộ Tiên Du Sơn Tùng Kính 月夕步仙遊山松
徑 (Đêm trăng dạo
bước trên đường thông ở núi Tiên Du).
2. Đề Dương
Công Thủy Hoa Đình 題楊公水華亭 (Đề đình Thủy
Hoa của ông họ Dương).
3. Linh Sơn Tạp
Hứng 靈山雜興 (Tạp hứng ở núi
Chí Linh).
4. Thôn Nam Sơn
Tiểu Khế 村南山小憇 (Tạm nghỉ ở núi
Thôn
5. Cung Họa Ngự
Chế Động Chương 恭和御制洞章 (Họa lại bài thơ
vua làm tại trong động).
6. Thanh Lương
Giang 清凉江 (Sông Thanh
Lương).
7. Thứ Vận Tặng
Thủy Vân Đạo Nhân 次韻贈水雲道人 (Họa vần tặng
Thủy Vân Đạo Nhân).
8. Xuân Đán
春旦 (Sáng mùa xuân).
9. Miết Trì 鱉池 (Ao
Miết).
10. Giang Đình Tác 江亭作 (Làm thơ ở đình bên sông).
11. Sơ Hạ 初夏 (Đầu mùa
hè).
12. Vọng Thái
Lăng 望泰陵 (Nhìn về Thái
Lăng).
Sự
nghiệp
Khi ông mất, vua Nghệ Tông đặt tên thụy là Văn Trinh, truy tặng tước
Công (tước lớn nhất trong năm tước mà người ngoài hoàng tộc có thể được phong),
ban hiệu là Khang Tiết Tiên Sinh và được đem vào thờ trong Văn Miếu. Ngô Thế
Vinh trong bài văn bia ở đền Phương Sơn đã giải thích: Văn, đức chi biểu dã. Trinh, đức chi chính cố dã. (Văn là cái vẻ đẹp
bên ngoài của đức. Trinh là sự bền vững bên trong của đức.) Nghĩa là cả ngoại mạo
và tâm hồn ông đều đạo đức và kiên định.
Trường ông lại đào tạo nhiều danh thần như Phạm Sư Mạnh 范師孟, Lê [Bá]
Quát 黎[伯]括 giữ đến chức hành khiển (người đứng đầu một đạo, ngang tổng đốc sau
này) mà đến thăm thầy vẫn chắp tay đứng hầu. Tổng hợp một số chi tiết liên quan
đến
賀樵隱先生拜國子監司業 ([5])
學海廻瀾俗再醇, 上庠山斗得斯人.
窮經博史工夫大, 敬老崇儒政化新.
布韈芒鞋歸漢日, 蒼顏白髮浴沂春.
花勳只是垂衣治, 爭得巢由作内臣.
Dịch âm
Hạ Tiều Ẩn Tiên Sinh Bái Quốc Tử Giám
Tư Nghiệp
Học hải hồi lan tục tái thuần
Thượng
tường Sơn Đẩu đắc tư nhân
Cùng
kinh bác sử công phu đại
Kính
Lão sùng Nho chính hóa tân
Bố
miệt mang hài quy hán nhật
Thương
nhan bạch phát dục Nghi xuân
Hoa
Huân chỉ thị thùy y trị
Tranh đắc Sào Do tác nội thần.([6])
Dịch nghĩa
Mừng
Tiều Ẩn Tiên Sinh Nhận Chức Tư Nghiệp Quốc Tử Giám
Xoay lại sóng biển học để phong tục thuần hậu
Nhà trường nay được bậc Thái
Sơn, Bắc Đẩu đến dạy học
Kinh sử đều học rộng, công phu thật lớn thay
Kính đạo Lão, sùng đạo Nho nên chính sự nay đổi mới
Ngày ông mặc vớ vải, giày cỏ về làm dân thường
Người trẻ cùng tắm sông Nghi mùa xuân với người
già
Vua
Nghiêu, vua Thuấn chỉ thõng tay mà trị nước
Bởi
vì có ông Sào, ông Do là bầy tôi.
Sự nghiệp của ông sau này được nhắc đến nhiều qua bài Thất Trảm Sớ 七斬疏 tức lời tâu xin chém bảy tên nịnh thần năm
Canh Tuất (1370) đời Trần Dụ Tông. Tính theo niên biểu, ông làm quan một thời
gian rất dài, từ đời Minh Tông (1314-1329), qua đời Hiến Tông (1329-1341) tới đời
Dụ Tông (1341-1369). Sau khi Minh Tông thượng hoàng mất (1357), Dụ Tông nắm quyền,
dùng nhiều kẻ gian, ông can ngăn không được mới treo mũ ở cửa Huyền Vũ, từ quan về ở ẩn núi Phượng Hoàng 鳳凰, làng Kiệt
Đặc 傑特, huyện Chí Linh 至靈 (Hải Dương).([7])
Khi ông về ở ẩn, người đương thời rất tiếc, cố khuyên can ông ở lại
nhưng ông không nghe. Băng Hồ tướng công Trần Nguyên Đán có thơ tặng ông:
贈朱樵隱
黼冕桓圭心已灰, 風霜安敢閉寒梅.
白雲高疊山扉掩, 紫陌多歧我馬隤.
蕙帳勿驚孤鶴怨, 蒲輪好爲下民迴.
昌期社稷天方作,
肯使先生老碧隈.([8])
Dịch âm
Tặng
Phủ miện hoàn khuê tâm dĩ hôi
Phong
sương an cảm bế hàn mai
Bạch
vân cao điệp sơn phi yểm
Tử
mạch đa kỳ ngã mã đồi
Huệ
trướng vật kinh cô hạc oán
Bồ
luân hảo vị hạ dân hồi
Xương
kỳ xã tắc Thiên phương tác
Khẳng
sử tiên sinh lão bích ôi.([9])
Dịch nghĩa
Tặng Chu Tiều Ẩn
Triều phục và ngọc hoàn khuê nay đã lòng nguội lạnh
Gió sương không thể giam giữ cây mai lạnh
Mây trắng, lũy cao núi đóng lại
Đường tím nhiều lối ngựa ta chân mỏi
Trong trướng huệ không sợ
chim hạc ở một mình oán giận
Bánh
xe cỏ bồ hãy vì dân mà quay lại
Xã
tắc thịnh trị Trời sẽ giúp
Lẽ
nào tiên sinh lại đi ở chỗ non xanh.
Vua Dụ Tông tên thật Trần Hạo, là con thứ mười của vua Minh Tông, sinh
năm Bính Tý (1336) lên ngôi lúc mới năm tuổi (Tân Tỵ 1341). Mười sáu năm đầu vì
có thượng hoàng Minh Tông quyết định mọi việc nên tình hình tạm ổn, nhưng từ
khi thượng hoàng mất (1357), Dụ Tông ăn chơi xa xỉ, cơ nghiệp suy đốn rất mau.
Có lần nhà vua lẻn ra ngoài thành chơi, đêm về bị kẻ cướp chặn lại lấy mất cả
gươm lẫn ấn. Năm Kỷ Dậu (1369) nhà vua mất, ngôi nhà Trần về tay Dương Nhật Lễ.
Nhật Lễ vốn là con của một người nhà trò (người làm nghề xướng ca) tên là Dương
Khương. Vợ Dương Khương cũng là con hát, đang có thai thì bị Cung Túc Vương Trần
Dục ([10]) cướp về làm vợ. Ðứa con đó là Nhật Lễ. Vì
thế Nhật Lễ khi lên làm vua đổi lại họ Dương. Tôn thất nhà Trần hợp sức lật đổ
Dương Nhật Lễ tôn con thứ vua Minh Tông là Cung Tĩnh Vương Trần Phủ lên làm vua
tức vua Nghệ Tông.
Tuy đã về hưu, mỗi khi hội lớn
- Người này không thể bắt làm tôi được, làm sao
có thể sai bảo ông ta.
Vua lại ban cho mũ áo nhưng ông tạ ơn rồi lại đem cho người khác chứ
không giữ. Chỉ đến khi Dụ Tông băng hà, ông nghe tin vua Nghệ Tông lên ngôi mới
chống gậy vào bái yết rồi lại về quê. Nam
Ông Mộng Lục chép rằng “Học trò ông khi đã ra làm quan rồi vẫn thường đến
thăm thầy, tới đều sụp lạy dưới sập ông ngồi, được cùng ông trò chuyện một vài
câu rồi đi thì rất vui sướng. Những ai có điều không hay, ông đều quở mắng nặng
nề, thậm chí đuổi đi không cho vào. Ông thanh cao nghiêm chính nổi tiếng một thời
ai ai cũng biết … ([11])
Ngoài những đức tính của ông khi làm quan, làm thầy, Ngô Sĩ Liên trong
Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư tôn ông là tổ
của Nho gia nước Việt và đặt ông hơn hẳn những danh Nho khác như Trương Hán
Siêu, Trần Nguyên Ðán. Chúng ta thử xem lời nhận định đó dựa trên căn bản nào.
Trước thế kỷ 14, nước ta tuy đã có tổ chức hành chánh và cương vực rõ
rệt nhưng về văn hóa có lẽ còn ở mức sơ khai. Mặc dù mình chịu ảnh hưởng của người
Tàu sau hơn ngàn năm bị đô hộ, có thi cử, có văn chương nhưng vẫn còn nhiều nét
thuần phác. Xem những tác phẩm còn sót lại ngày nay, chỉ được một ít bài có giá
trị. Hơn thế nữa, tuy giai đoạn tự chủ của chúng ta đã kéo dài vài trăm năm
nhưng vẫn chinh chiến nhiều, hết nội loạn tới ngoại xâm. Ðời Ðinh, Lê chúng ta
đã phải lo củng cố thực lực, sang đời Lý lại chinh chiến nhiều phen với Trung
Hoa, với Chiêm Thành. Ðến đời Trần, giai đoạn đầu, nhà Trần tuy có xây dựng được
một số quy tắc trị nước và định chế giáo dục nhưng vẫn thiên về hình pháp, mang
tính chất trấn áp và củng cố quyền lực hơn là văn hóa. Vừa ổn định được một
chút, thì bốn lần giặc Nguyên sang chiếm nước ta, cả nước chuyển qua thế chiến
tranh chống giữ. Thắng được địch đã là một kỳ công nên việc xây dựng một nền
móng vững vàng về học thuật, chính trị, hành chánh chưa kịp tiến hành.
Phải đến đời vua Anh Tông (1293-1314) nước ta mới tạm yên. Chính từ
giai đoạn này, vai trò của
Thứ nhất, từ đời Anh Tông, tầng lớp quan lại là thành phần có vai trò
quyết định trong việc nắm giữ vận mệnh quốc gia đã chuyển từ giới quý tộc nhà
Trần sang giới Nho sĩ. Theo sách vở, triều đình có những lương đống như Ðoàn Nhữ
Hài, Phạm Ngũ Lão, Trương Hán Siêu, Nguyễn Trung Ngạn, Chu An đều không phải
người trong tôn thất. Tuy vẫn có những tranh chấp trong giới thân tộc nhà Trần
nhưng giới quan lại giữ được tư thế độc lập, không để bị lôi cuốn vào những phe
đảng của hoàng gia. Giai đoạn này mặc dù các hoàng thân quốc thích vẫn còn giữ
những thái ấp, điền trang rộng lớn nhưng chỉ là những phú gia chứ không còn vai
trò quyết định quốc gia như thời kỳ đầu. Ngay cả binh quyền cũng đã giao cho
nhiều người thuộc hàng dân dã. Chúng ta cũng đã thấy, triều Trần cũng như nhiều
triều đại khác, giao phó việc quân sự cho một số người trong hoàng tộc, thường
dân chỉ làm tỳ tướng, phó tướng. Ðến giai đoạn này, quyền lực đó đã giảm dần.
Thứ hai, quốc gia tuy vẫn chú trọng việc quân sự nhưng đã chuyển hướng
nỗ lực sang xây dựng những định chế hành chánh, giáo dục, kinh tế và xã hội. Luật
lệ được quy định rõ ràng, thay thế tính chất điền ấp nông nô. Tổ chức hành
chánh được thành lập, có hệ thống quan chế, văn võ. Khoa thi Thái Học Sinh được
mở ra từ năm 1323, lại cấm thói vẽ mình của quân lính.
Thứ ba, từ một xã hội với tinh thần đa giáo (Nho, Thích, Lão) Chu An
và những bạn đồng liêu đã đẩy lùi hai tôn giáo lớn là Phật và Lão xuống quần
chúng và nâng Nho Giáo lên thành một thứ khuôn mẫu chính trị. Không phải ngẫu
nhiên mà Văn Trinh Công đã trước tác Tứ
Thư Thuyết Ước và rất có thể đây là một trong những diễn dịch, bình luận và
giải thích đạo Nho sớm nhất của Việt Nam. Tuy hiện nay chúng ta không còn tài
liệu nào về tác phẩm này nhưng có lẽ
身與孤雲長戀岫 / 心同古井不生瀾.
Thân dữ cô vân trường luyến tụ
Tâm
đồng cổ tỉnh bất sinh lan.([13])
Dịch nghĩa
Người với chòm mây đơn lẻ vẫn
nhớ tới núi xanh
Lòng
cũng giống như giếng cổ nước không còn sóng nữa.
Tạm dịch
Lòng như giếng cũ đâu còn sóng
Thân với mây chiều vẫn nhớ non.
Chỉ mười sáu chữ mà ta thấy cái tĩnh lãng, hư không chan chứa trong đời
sống, nói lên một sự tiêu biểu của Tam Giáo hòa đồng, khi trẻ thì mòn gót lỏng
trán để giúp đời nhưng khi già thì quay lại làm bạn với mây ngàn hạc nội.
Thứ tư, Chu An và thế hệ của ông cũng san định lại phong hóa, lễ nghi
cho xã hội Việt
Từ những ưu điểm đó, tuy về sau nước ta bị nhà Minh xâm chiếm nhưng chỉ
một thời gian ngắn lại giành được độc lập và đời Lê là một trong những giai đoạn
thịnh trị nhất trong lịch sử. Có thể nói một số thành quả của triều Lê chính là
ảnh hưởng nối dài của giai đoạn cuối đời Trần mà
Nói tóm lại,
吳氏曰
我越儒者見用於時不爲不多. 未有志道德以致澤爲念者也. 如蘇憲誠之於李, 朱文貞之於陳始庶幾焉然. 憲誠遇君者也, 所以功業見於當時. 文貞不遇者也, 所以正學見於後世.
以文貞言, 其事君也必犯顏,
其出處也則以義, 造就人才則 公卿多出於其門, 高尚風節則天子不得而臣. 况巖巖体貌而師 道嚴, 稜稜聲氣而佞人讋,
千載下聞其風能無廉頑立懦者乎宜 乎爲我越儒宗而從祀文廟也.
他如元旦同姓之卿, 雖含忠憤之氣而付國勢於無奈全家屬 於顛沛,
漢超文學之臣, 雖有骨鯾之直而交歡於不當交 (友善 於中官之輩)
嫁女於不當嫁 (於文貞乎何有).
Dịch nghĩa
Họ Ngô bàn rằng
Nước Việt ta những Nho sĩ gặp thời được dùng
không phải không nhiều nhưng không có chí về đạo đức để mang trong lòng ý niệm
ban ân trạch cho dân. Đời Lý có Tô Hiến Thành, đời Trần có
Cứ như Văn Trinh mà luận, phàm việc thờ vua ắt phải
nghiêm trang, đối đãi xuất xử ắt lấy điều nghĩa, vun đắp nhân tài nên công
khanh hầu hết từ cửa ông mà ra, cao thượng phong tiết khiến thiên tử cũng không
dám coi như tôi tớ. Huống chi dáng lẫm liệt mà dạy học trò nghiêm, tiếng vang
vang nên nịnh thần sợ, nghìn sau nghe tiếng mà kẻ ương bướng không sợ hay sao?
Không phải là tổ tông của Việt Nho ta đáng được đưa vào thờ tự ở Văn Miếu hay
sao?
Còn người khác như Nguyên Đán vốn là công khanh
cùng họ [nhà vua], tuy có bụng công phẫn nhưng mặc đất nước để gia thuộc mình
khỏi lênh đênh, còn Hán Siêu là bầy tôi văn học, tuy cứng cỏi chính trực nhưng
lại giao thiệp với kẻ không đáng giao thiệp (giao du thân mật với bọn hoạn
quan), gả con gái cho người không đáng gả (sao sánh được với Văn Trinh).([16])
Một sử thần vốn nổi tiếng là kỹ lưỡng, kén chọn từng chữ, từng lời đã dành
bấy nhiêu câu khen ngợi đủ thấy
Lê Tung trong Việt Giám Thông Khảo
Tổng Luận thì hạ bút ca tụng bài Thất
Trảm Sớ là: Thất trảm chi sớ, nghĩa động
càn khôn. (Bài sớ xin chém bảy tên nịnh thần, nghĩa khí động tới trời đất.)
Tính khí của ông lẫm liệt đã đành, văn chương của ông cũng hết sức cao
tiết. Phan Huy Chú phê bình Tiều Ẩn Thi Tập
là: Thơ hết sức trong sáng, u dật, nhàn
nhã tự tại, khiến người đọc tưởng như thấy được cái thú cao của việc ở ẩn như
thế nào. Họ Phan cũng ca ngợi ông là: Học
nghiệp thuần túy, tiết tháo cao thượng, làng Nho nước Việt ta trước sau chỉ có
mình ông, các ông khác không thể so sánh được.([17])
Ðể kết luận, chúng tôi xin
mượn bốn câu thơ của vua Dực Tôn (Tự Ðức) trong Việt Sử Tổng Vịnh viết về ông như sau:
上庠山斗世間師, 心與人乖一去遲.
七斬疏成天地鑒, 直聲不共有陳衰.([18])
Thượng tường Sơn Đẩu thế
gian sư
Tâm dữ nhân quai nhất khứ trì
Thất Trảm Sớ thành thiên địa giám
Trực
thanh bất cộng hữu Trần suy.
Dịch nghĩa
Là bậc
Thái Sơn, Bắc Đẩu của thế gian nơi trường học
Lòng ông khiến cho những kẻ không ngay thẳng phải chùn bước
Thất Trảm Sớ có
trời đất chứng giám cho
Lời nói thẳng
không cùng chung với sự suy vi của nhà Trần.
Phỏng dịch
Gian tà đâu để tung hoành
Khí cao vằng vặc lưu danh sáng ngời
Sớ dâng chứng với đất trời
Không đang tâm sống cảnh đời suy vi.
Tương truyền khi ông mở trường dạy học, rất đông học trò tìm đến thụ
nghiệp. Trong số học trò có một thanh niên, mặt mũi sáng sủa hôm nào cũng đến
thật sớm. Ông khen là chăm chỉ nhưng hỏi thì ngập ngừng không nói quê quán ở
đâu. Ông cho người đi theo thấy người đó đi đến đầm Ðại (nằm giữa các làng Ðại
Từ, Tứ Kỳ, Huỳnh Cung) thì biến mất nên ngờ là thủy thần.
Năm đó, trời đại hạn, nắng đã lâu mà không mưa, dân chúng khổ sở lắm.
Một hôm, sau khi giảng bài xong, ông lên tiếng hỏi học trò ai là người có tài
làm mưa giúp dân. Người học trò ấy ngần ngừ nhưng sau cũng bước ra thưa rằng:
- Việc mưa nắng là việc của Thiên Ðình, con vâng lời thầy là nghịch lại
thượng giới, nhưng cũng xin thử sức. Nếu có chuyện gì không hay xin thầy chu
toàn cho.
Nói rồi, ra đứng giữa sân, lấy nghiên mài mực, ngửa mặt lên khấn, lấy
bút thấm mực vãi ra bốn phương. Lúc hết mực tung bút và nghiên lên trời. Lập tức,
mây đen kéo đến, sấm chớp ầm ầm, trời đổ một trận mưa thật lớn. Người học trò đội
mưa đi về, ra đến cửa thì biến mất.
Sáng hôm sau, không thấy y trở lại học,
Chỗ nghiên mực ném lên rơi xuống nay thành đầm nước lúc nào cũng đen,
gọi là đầm Mực. Quản bút rơi xuống làng Tả Thanh Oai, sau này là một làng văn học
nổi tiếng (quê hương Ngô Thời Sĩ, Ngô Thời Nhiệm triều Lê). Trong đền thờ còn một
đôi câu đối ghi lại sự tích này:
Mặc nghiễn khởi tường vân, nhất bút lực hồi thiên
tự thuận,
(Mây lành từ nghiên mực bay lên,
một ngọn bút ra công trời thuận theo lẽ phải,
Mưa tốt giữa sân son đổ xuống, nghìn cánh
đồng dội nước, đất đang khô cũng trổ mùa).
Chu đình là sân son mà cũng là trường học họ
Tháng 5-2020 (CVA 1959-66)
THƯ MỤC THAM KHẢO
Ðặng Kim Ngọc, Chu Văn An
(1292-1370) Nhà Sư Phạm Mẫu Mực Cuối Ðời Trần, tr. 165-166. Ban Văn Hóa Văn
Nghệ Trung Ương, Văn Hóa Việt
Ðào Duy Anh, Việt
Dương Thị The (tổ chức công trình), Đại Việt Sử Ký Tiền Biên.
Gia Lai: Nxb Hồng Bàng, 2012.
Dương Thị The (tổ chức công trình), Đại Việt Sử Ký Tiền Biên.
Hà Nội: Nxb Khoa Học Xã Hội, 1997.
Hoàng Văn Lâu (dịch), Hà Văn Tấn (hiệu đính), Đại Việt Sử Ký Toàn
Thư (bốn tập). Hà Nội: Nxb Khoa
Học Xã Hội, 1998. Bản in Nội Các Quan Bản, mộc bản khắc năm Chính Hòa thứ 18
(1697).
Hội Ái Hữu Bưởi – Chu Văn An Nam California, Kỷ Yếu Chín Mươi Năm Văn Học Trường Bưởi –
Chu Văn An. Ðinh Sửu, 1997.
Lãng Nhân, Giai Thoại Làng Nho Toàn Tập.
Ngô Tất Tố, Văn
Học Ðời Lý (nguyên bản 1941). Ðại
Ngô Tất Tố,
Văn Học Ðời Trần. Sài Gòn: Nxb Khai
Trí, 1960.
Ngô Thế Long và Nguyễn Kim Hưng (dịch), Nguyễn Đổng Chi (hiệu đính), Đại
Việt Sử Ký Tục Biên (1676-1789). Pleiku: Nxb Hồng Bàng, 2012.
Nguyễn Huyền Anh. Việt
Nguyễn Khắc Thuần, Việt Sử Giai Thoại, tập 3. Nxb Giáo Dục, 1997.
Nguyễn Q. Thắng và Nguyễn Bá Thế, Từ Ðiển Nhân Vật Lịch Sử Việt Nam. Nxb
Khoa Học Xã Hội, 1992.
Phạm Cao Dương, Siêu Quốc Gia Việt Nam Tại Hải Ngoại Và Hiểm Họa Bắc Phương (tuyển
tập).
Phan Huy Chú, Lịch Triều
Hiến Chương Loại Chí (bản dịch Viện Sử Học). Tập I: Dư Địa Chí, Nhân Vật
Chí, Quan Chức Chí. Quyển XI. Hà Nội: Nxb Khoa Học Xã Hội, 1992.
Trần Trọng Kim, Việt
Trương Tú Dân 張秀民, Trung Việt
Quan Hệ Sử Luận Văn Tập 中越關係史論文集. Ðài Bắc: Nxb Văn Sử Triết, 1992.
Ủy Ban Khoa Học
Xã Hội Việt
Viện Hán Nôm (Hà Nội), Ngự Chế Việt Sử Tổng Vịnh (1874) 御製越史總詠集 [内閣朝阮] (NLVNPF-0370-01), quyển IV.
Viện
Văn Học, Thơ Văn Lý-Trần. Tập III. Hà Nội: Nxb Khoa Học Xã Hội, 1978.
Việt
NGUYỄN DUY CHÍNH
([1]) Ông chính tên
([2]) Việt
([4]) Ông người làng Tức Mặc, lộ Thiên Trường, cháu tằng tôn Thượng Tướng Trần Quang Khải và là ông ngoại của Quan Phục Hầu Nguyễn Trãi
([5]) Viện Hán Nôm, (Ngự chế) Việt Sử Tổng Vịnh (1874) 御製越史總 詠集. [内閣朝阮] (NLVNPF-0370-01), quyển IV, tr. 8-9.
([6]) Tiều Ẩn: Chu An. Sơn Đẩu: Thái Sơn và Bắc Đẩu (tượng trưng cho người đứng đầu trong
một ngành). Nghi: sông Nghi (quê
hương Khổng Tử). Hoa Huân: vua Thuấn,
vua Nghiêu. Sào Do: Sào Phủ, Hứa Do
(hai danh sĩ đời Nghiêu Thuấn).
([7]) 後裕尊怠于政事, 羣臣多不法. [朱]安陳不聽, 乃上疏乞斬佞臣七
人. 皆權幸者. 人謂之七斬疏. 疏入不報. 乃掛冠歸田. Sau Dụ Tông biếng nhác việc triều chính, quần thần nhiều người không coi
pháp luật ra gì. [
([8]) Viện Văn Học, Thơ Văn Lý Trần. Tập III. Hà Nội: Nxb Khoa Học Xã Hội, 1978, tr. 163.
([9]) hoàn khuê: Ngọc của chư hầu và đại quan
cầm trên tay khi vào hầu vua. bồ luân:
Xưa vua lấy cỏ bồ quấn vào bánh xe cho êm, dùng để đón người hiền tài.
([10]) Cung Túc Vương Dục là anh vua Dụ Tông, đáng lẽ phải được kế nghiệp vua Hiến Tông nhưng Minh Tông lại lập con
út. Khi Dụ Tông mất, bà Hiến Từ lập Nhật Lễ lấy cớ là Nhật Lễ cũng là con của Cung Túc Vương, cha không được làm vua thì con phải được làm
vua. Sau Nhật Lễ đánh thuốc độc giết Hiến Từ.
([11]) 昔安弟子爲執政者, 時來問候,拜床下, 得與談話片言而去者,
甚以爲喜. 有不善者, 切責唾駡, 甚至呵叱不納. 其清直嚴正, 名聞 一時… Việt Nam Hán Văn Tiểu
Thuyết Tùng San (Đệ Lục Sách,
1987), tr. 17. (NDC dịch)
([12]) Số người bị nhà Minh bắt đưa về Trung Hoa rất
đông, trong đó có một số nhân vật rất nổi tiếng, đóng góp lớn vào sự phát triển
của Trung Hoa như Lê Trừng (Hồ Nguyên), người nổi tiếng về chế tạo súng thần
công , Nguyễn An, viên kỹ sư trưởng xây dựng thành Bắc Kinh… (Xem: Trương Tú
Dân 張秀民, Trung Việt Quan Hệ Sử Luận Văn Tập 中越關係史論文集.
Ðài Bắc: Nxb Văn Sử Triết, 1992.)
([14]) Ðời Dụ Tông (1368),
Doãn Thuấn Thuần sang sứ Tàu được vua Minh khen là giữ được văn minh Trung Nguyên, hơn các dân tộc khác thay đổi
theo nhà Nguyên. (An