Thứ Bảy, 12 tháng 5, 2018

17 GIÓ BỐN PHƯƠNG (ĐẠO UYỂN HẠ 2018)


Gió muốn thổi đâu thì thổi. GIOAN 3:8
* Lễ Sanh Thượng Vui Thanh (TT Hương Mỹ). Trích thư Hương Mỹ (Bến Tre), ngày 25-12-2017:
Từ khi tôi xin nhập môn vào Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ năm 1960 và lập khánh thờ Đức Cao Đài tại nhà, nhiều người gặp tôi hay hỏi về Đấng Huyền Khung Cao Thượng Đế, muốn tôi trả lời cho họ biết được Ngài là ai? Hình dáng ra sao? Tuổi tác thế nào? v.v...
Tôi tự thấy mình rất là thiển cận, chưa đủ hạnh đức cũng như hiểu biết, chưa chứng đắc về mặt tâm pháp (tịnh luyện), nếu tôi mở miệng nói về Thượng Đế thì chắc chắn chẳng khác gì kẻ mù sờ voi.
Gần đây Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo có gởi về Bến Tre tặng tôi cuốn Ý Thức Hệ Cao Đài. Tập sách này giúp tôi được dịp nghiền ngẫm nhiều tư tưởng cao xa về Đức Chí Tôn: “Cao Đài không là Cao Đài, đó chính thị là Cao Đài.” (tr. 22); “Thượng Đế vẫn hiếu sinh, phân hóa phi phân hóa, kết hợp phi kết hợp.” (tr. 23); “Thượng Đế là tuyệt đối thể bất khả tư nghị. Mọi nỗ lực của con người nhằm diễn tả Thượng Đế đều là đem cái hữu hạn để thăm dò cái vô hạn.” (tr. 47-48), v.v...
Ban Ấn Tống: Chúng đệ muội chân thành cảm ơn hiền huynh đã viết nắn nót bốn trang thư A4, bày tỏ nhiều cảm nghĩ tốt đẹp dành cho Chương Trình Chung Tay Ấn Tống. Xin cầu nguyện Thầy Mẹ ban ơn lành đến hiền huynh, một bạn đọc cao tuổi có thể nói là tri âm” của chúng đệ muội trong suốt mười năm nay.
*
) Hiền huynh Phan Lương Minh (Cần Thơ). Điện thoại ngày 26-12-2017:
Trong Đạo Uyển Xuân 2018 (tr. 23-24) nhắc tới các vị tiền bối Cao Đài mà thánh danh kèm theo chữ TINH như Thiên La Tinh, Liêm Trinh Tinh, Địa Tráng Tinh. Tôi bổ sung rằng ở Cần Thơ xưa kia có tiền bối Võ Văn Ngàn, cai quản thánh thất Tây Thành; thánh danh tiền bối là Võ Khúc Tinh.
Huệ Khải: Kính thưa Phan hiền huynh, tệ đệ rất cảm ơn hiền huynh. Nhân đây xin nói thêm:
Sao Võ Khúc là một trong nhóm bảy vì sao gọi chung là Bắc Đẩu 北斗. Bảy sao này theo thứ tự là: Tham Lang 貪狼, Cự Môn 巨門, Lộc Tồn 祿存, Văn Khúc 文曲, Liêm Trinh 廉貞, Võ Khúc 武曲, và Phá Quân 破軍.
Theo Phong Thần Diễn Nghĩa thì tướng Ðậu Vinh 竇榮 được vua Trụ phong chức tổng binh, cùng với vợ là Triệt Địa 徹地 trấn ải Du Hồn 游魂 hai mươi năm. Đậu Vinh bị Khương Văn Hoán chém chết tại trận, còn vợ bị Mộc Tra chém mất đầu (hồi chín mươi ba và chín mươi bốn). Về sau, Thiên Đình phong Đậu Vinh làm sao Võ Khúc, vợ làm sao Nguyệt Khôi 月魁 (hồi chín mươi chín).
*
@ Hiền tỷ Đại Cơ Minh (Minh Lý Thánh Hội). Điện thư ngày 25-01-2018:
Đạo muội rất thích đọc mục Gió Bốn Phương vì học thêm được nhiều điều.
Văn Uyển tập Hanh (số 22), tr. 163, có giải thích chữ Đông Lâm. Muội xin bổ túc thêm một ý nghĩa trích từ Tỉnh Thế Ngộ Chơn (bản in của Minh Lý Đạo liên kết Nxb Tôn Giáo năm 2014), tr. 62: Theo phụ giải số 61, Đông Lâm là Cõi phàm gian. Khi xuống phàm, con người lấy mộc khí làm tánh. Vì mộc thuộc về đông nên gọi cõi phàm là Đông Lâm.”
Văn Uyển tập Trinh 2017 (số 24), tr. 168, bàn về bài thơ Nhị bát giai nhân thể tự tô”. Đúng là người đánh máy đã nhầm chữ ám với chữ âm. Lỗi này đã sửa khi tái bản (bản in của Minh Lý Đạo liên kết Nxb Tôn Giáo năm 2014). Bài thơ này có trong Ngộ Tánh Cùng Nguyên [悟性窮原] của Hàm Cốc Tử [涵谷子], và căn cứ theo đó thì tác giả là Đức Lữ Tổ.
Huệ Khải: Tệ đệ rất cảm ơn hiền tỷ đã bổ túc cho hai phần trả lời trên Văn Uyển tập 22 và 24. Tệ đệ rất mong sẽ còn nhận được nhiều góp ý của hiền tỷ đối với các đầu sách do Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo thực hiện. Kính chúc hiền tỷ an lạc.
*
@ Một tín hữu ẩn danh. Điện thư ngày 10-3-2018:
Đầu xuân Mậu Tuất, tệ muội về thánh thất và thỉnh được quyển THÁNH TRUYỀN TRUNG HƯNG (Hà Nội: Nxb Tôn Giáo 2017). Nơi trang 1002 có Bản Đính Chính. Theo đó thì hai chữ sông non đã in ở trang 305 (cột I, dòng 6 đếm từ dưới lên) phải sửa lại là non sông. Tệ muội cảm thấy là lạ về sự sửa chữa này nên muốn được Ban Ấn Tống giúp cho ý kiến. Ngoài ra, tệ muội cũng xin quý huynh tỷ giải thích giúp ý nghĩa câu Đạo THƯỢNG ĐẾ” (trang 880) trong bản in nói trên.
Huệ Khải: Chào đạo hữu. Phần trả lời hơi dài nên được tách thành hai mục như sau:
1. Bình thường chúng ta nói non sông, như thánh giáo tại Trước Lâm Thánh Đức Thiền Điện (Vĩnh Long) ngày 02-5-1971, Đức Phan Thanh Giản dạy:
Non sông một dải kia kìa
Đừng cho ai cắt ai chia giống nòi.
Nhưng tại Trung Hưng Bửu Tòa ngày 05-02-1956, Đức Lý Thái Bạch áp dụng phép đảo ngữ khi dạy:
Năm lập pháp cộng đồng vui khổ
Ngày thọ ân đã cố làm tròn
Tiếng tăm nổi với sông non
Khó khăn vững bước, chìu lòn quanh co.
Theo luật thơ song thất lục bát, chữ cuối câu lục (non) phải hiệp vận với chữ cuối câu thất trước nó (tròn) và chữ thứ sáu trong câu bát tiếp theo (lòn).
Như vậy, Bản Đính Chính lẽ ra đừng đổi sông non thành non sông, vì sông không hiệp vận với tròn lòn.
Rất may ở trang 39 bản in nói trên còn có một bài thánh thi khác cũng đảo ngữ thành sông non mà Bản Đính Chính không đổi thành non sông. Đó là thánh giáo tại Tòa Thánh Hậu Giang ngày 15-02 Đinh Sửu mà ấn bản Thánh Truyền Trung Hưng nói trên lại in ngày dương lịch là 27-03-1937 (sic).
Một năm có mười hai tháng; riêng tháng Một và tháng Hai nên viết số là 0102 để tránh nhầm lẫn với tháng 11 và 12. Bởi vì không có các tháng 13, 14, ... 18, 19, thế nên từ tháng 3 tới tháng 9 KHÔNG cần viết là 03, 04, ... 08, 09 (điều này khác với quy ước ở văn bản điện tử).
Trong thánh giáo ngày 27-3-1937, Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế xưng danh qua bài tứ tuyệt quán thủ như sau:
NGỌC Kinh mở cửa để chờ con
HOÀNG cảnh trần gian đạo đức tròn
THƯỢNG chí hạ lưu tu đức chính
ĐẾ dân khỏi thẹn với sông non.
Ở đây, Thầy đảo ngữ thành sông non để hiệp vận với contròn.
Lại tiếc rằng ấn bản 2017 này in là Hoàng cảnh thì làm cho câu thơ sai chánh tả (hoàn cảnh 環境: environment, circumstances, surroundings). Lẽ ra nên in: HOÀN(G) cảnh trần gian đạo đức tròn; như thế, tín chúng hiểu rằng đọc theo quán thủ là NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ, còn đọc theo câu thơ là HOÀN cảnh trần gian đạo đức tròn.
(Khi dẫn lại các câu thơ ở ấn bản 2017 tôi đã bỏ bớt các dấu phẩy, dấu chấm cuối câu.)
2. Trang 880 in là Đạo THƯỢNG ĐẾ.” Như vậy sách đã in sai. Lẽ ra phải là: Đạo giả THƯỢNG ĐẾ.
Ở đây chúng ta gặp cấu trúc GIẢ . Cấu trúc này giải thích về người hay sự vật.
A. Chữ DÃ ở cuối câu diễn tả ý khẳng định; có khi dịch DÃ là VẬY, hoặc không dịch. Thí dụ:
a. Tuân Khanh giả Triệu nhân .
荀卿者趙人也. (Tuân Khanh là người nước Triệu.)
b. Sinh ngã giả ngã phụ mẫu .
生我者我父母也. (Người sinh ra ta là cha mẹ ta.)
Trong thí dụ b, chữ ngã thứ nhất làm bổ ngữ (object) cho động từ sinh, tương đương chữ me trong tiếng Anh. Chữ ngã thứ hai làm định ngữ (modifier) cho cụm danh từ phụ mẫu, tương đương chữ my trong tiếng Anh; ngã phụ mẫu tức là my parents (cha mẹ ta).
c. Trung Dung (chương 20) có hai câu này:
Nhân giả nhân . 仁者人也. (Đức nhân là đạo làm người. / Có đức nhân mới là người.) ([1])
Nghĩa giả nghi . 義者宜也. (Nghĩa là việc nên làm.)
d. Đổng Trọng Thư (179-104 trước Công Nguyên) viết:
Mệnh giả Thiên chi lệnh . Tính giả sinh chi chất .
命者天之令也. 性者生之質也. (Mệnh là lệnh của Trời vậy. Tính là bản chất lúc sinh ra vậy.)
e. Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, đàn ngày 13-01 Bính Dần (Thứ Năm 25-02-1926), Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế dạy:
Thiên giả Ngã .
(天者我也. / Trời là Ta vậy. / Heaven is Me. / God is Me.) ([2])
B. Trong cấu trúc nói tới ở mục A trên đây thì chữ DÃ cuối câu có thể lược bớt. Đây là trường hợp ta gặp trong Thánh Truyền Trung Hưng, thánh giáo tại thánh thất Kim Quang Minh Đài, ngày 22-6 Canh Tuất (Thứ Sáu 24-7-1970), Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế dạy:
Nguyên thủy hữu Đạo. Đạo giả Thượng Đế. Đạo tức Thượng Đế dã.
(原始有道. 道者上帝. 道即上帝也. / Đầu tiên có Đạo. Đạo là Thượng Đế. Đạo tức là Thượng Đế vậy. / In the beginning, there is Dao. Dao is God. It is Dao that is God.)
Câu thứ hai có thể viết: Đạo giả Thượng Đế . (Đạo là Thượng Đế [vậy].) Chữ dã/vậy có thể bớt đi.
Thánh ngôn, thánh giáo Cao Đài thường dùng khá nhiều từ Hán Việt; do đó, điển ký (hoặc người sao chép) nếu không rõ ý nghĩa thì rất dễ viết sai, khiến cho câu văn, lời thơ khó hiểu. Nhất là trong Nam, bổn đạo lại phát âm không phân biệt giả (dấu ngã) thường nói cả hai y hệt như dả (dấu hỏi) nên càng rối rắm. Tình trạng này khiến cho người học đạo gặp nhiều trở ngại. Bởi vậy, công việc san định kinh sách Cao Đài rất hệ trọng. Hiện nay, trên Internet tràn lan những văn bản viết về đạo Cao Đài mà tiếng Việt thường mắc nhiều lỗi sai; thực trạng này khiến cho hình ảnh nhà Đạo chúng ta trước mắt công chúng dường như thiếu sức thuyết phục.
*
@ Hiền hữu Trần Văn Vinh (Quế Minh, Quế Sơn, Quảng Nam). Điện thư ngày 15-3-2018:
Trong một đàn cơ ban cho chức sắc Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài ngày 01-5 Bính Ngọ (Chủ Nhật 19-6-1966), Đức Thái Bạch Kim Tinh dạy như sau:
“Nếu dài có thước, nếu nặng có cân, ít nhiều có cân, có lường để tính. Không thể lấy mắt đoán chừng, mà có giỏi đoán thì một trăm lần cũng chưa đúng một. Nên sai một ly đi một dặm, thì mọi việc đâu đủ làm căn bản cho ngày sau. Nên luật pháp đã quy định, thì cứ theo đó mà làm. Dầu vạn đợi cũng không sai, mà giữa ta cùng người cũng không hề trái. Nên quy củ chuẩn thằng là bốn nguyên tắc chính, dầu thợ giỏi cũng không sao bỏ mực bỏ thước, mà làm cho khéo được.”
Tệ đệ xin Ban Ấn Tống cho biết: (1) “Vạn đợi” có phải là chờ đợi rất lâu dài? (2) Tại sao Đức Lý bảo rằng “quy củ chuẩn thằng là bốn nguyên tắc chính” ?
Huệ Khải: Chào hiền hữu. Đợi tức là đại (generation) nói chệch đi. Vạn đợivạn đại 萬代, muôn đời, đời đời, mãi mãi (forever).
Kế đến, quy củ chuẩn thằng 規矩準繩 được hiểu là phép tắc (rules) và mẫu mực (norms, criteria). Chẳng hạn, khi chú giải Tân Luật cho Hội Thánh Truyền Giáo (1939), Đức Lý Giáo Tông dạy: Tôn giáo có luật pháp để làm quy củ chuẩn thằng dìu dắt nhơn sanh tùng Pháp đi đến Đạo.
Nhưng quy, củ, chuẩn, thằng nguyên nghĩa là bốn dụng cụ đo đạc gồm có:  Quy là com-pa (compass), dùng để vẽ vòng tròn, hay đo khoảng cách trên bản đồ... / Củ là ê-ke (tiếng Pháp: équerre), cây thước vuông (steel square, framing square, carpenter’s square) dùng để đo góc vuông. / ƒ Chuẩn là thước thăng bằng (level), dùng để kiểm tra mặt phẳng nằm ngang. / Thằng (tức thằng mặc 繩墨) là sợi dây thợ mộc căng thẳng giữa hai điểm để lấy lằn mực thẳng (carpenter’s straight line marker). Có thể dùng phấn tẩm vào sợi dây thay cho mực.
Như vậy, Đức Lý Giáo Tông đã dùng ý nghĩa gốc của bốn dụng cụ này đồng thời còn nhắc đến mực (ink) và thước (rulers) khi dạy: “Nên quy củ chuẩn thằng là bốn nguyên tắc chính, dầu thợ giỏi cũng không sao bỏ mực bỏ thước, mà làm cho khéo được.”
Thay vì nói quy củ chuẩn thằng, người Việt còn nói mực thước theo nghĩa mẫu mực, khuôn phép, phép tắc. Thí dụ: Trong nhà thì cha mẹ làm mực thước cho con cái; ở trường thì thầy cô làm mực thước cho học trò.
Tại Trung Hưng Bửu Tòa, ngày 02-02 Mậu Tuất (Thứ Sáu 21-3-1958), Đức Tiếp Văn Pháp Quân dạy: “Người Bồ Tát hay người hướng đạo có cái thân đầy điển huệ. Thân ấy làm mực thước cho người đời. Mực thước đây không phải họ muốn giữ cho ra mực thước, mà mực thước ở trong lòng thuần chơn phát lộ.” =



([1]) Ngụ ý kẻ thiếu lòng nhân thì chưa thật sự là người, chỉ mới mang hình dáng người bên ngoài mà thôi. (Nhân giả nhân dã được James Legge dịch là: Benevolence is the characteristic element of humanity.) Minh Tâm Bảo Giám có câu: Người xưa hình dáng tợ như thú nhưng tâm có đức độ bậc đại thánh. Người nay bề ngoài tợ như người nhưng lòng lang dạ thú há đâu lường được. (Cổ nhân hình tự thú, tâm hữu đại thánh đức. Kim nhân biểu tự nhân, thú tâm an khả trắc. 古人形似獸, 皆有大聖德. 今人表似人, 獸心安可測.)
([2]) Trong tiếng Anh, chữ Heaven hay God viết hoa có nghĩa là Trời, Thượng Đế.