TIẾNG CHUÔNG CỔ TÍCH
LÊ
THANH VĂN
Trống sang canh vừa điểm, có
tiếng gà eo óc tận xa xa. Cảnh vật đắm chìm trong ánh trăng thượng tuần mờ
nhạt. Hoàng cung còn sáng một ô cửa. Một bóng người đi đi lại lại dưới ánh sáng
chập chờn của ngọn đèn trên án thư. Cả ba đêm nay, nhà vua đều thao thức vì
cùng một giấc mộng như nhau. Quan Âm Bồ Tát cỡi cá kình, tay cầm bình cam lộ đuổi
theo một quái vật chẳng rõ hình thù. Đến khi cá kình bắt kịp quái vật thì Bồ Tát
hóa thành một đạo hào quang biến mất. Nhà vua nghi nghi hoặc hoặc, chẳng rõ ý
nghĩa thế nào...
Rạng ngày, vua ngự triều, đem giấc mộng
lạ lùng hỏi ý kiến quần thần. Sau một hồi bàn bạc, bá quan dồn ánh mắt về phía
quan Thừa Tướng. Xưa nay Thừa Tướng vẫn được triều đình kính nể vì tài kiêm văn
võ của ông.
- Tâu bệ hạ, Thừa Tướng vừa khom người
thi lễ đức vua vừa nói. Theo ngu ý của hạ thần thì mộng triệu của bệ hạ là một
điềm lành...
Thừa Tướng vuốt chòm râu bạc, đảo mắt
nhìn các quan một lượt để gây ấn tượng, đoạn nói tiếp:
- Cam lộ
là nước thiêng của thần linh. Thiên hạ thái bình thì mới có cam lộ xuất hiện.
Còn cá kình tượng trưng cho giặc giã. Nay bệ hạ mộng thấy Bồ Tát cầm bình cam
lộ, cỡi cá kình đuổi quái vật, há chẳng phải là điềm lành cho thấy xã tắc an
bình thạnh trị đó sao? Vậy kíp xin bệ hạ mau nổi trận gió nhân để dân
chúng trên dưới được vui lòng, trong ngoài được thỏa nguyện.
Vua cả mừng mà rằng:
- Thừa Tướng thật là cao kiến, quả chẳng
phụ lòng tin của bá quan. Trẫm nay nghe lời Thừa Tướng giãi bày mà tiêu tan bao
điều nghi hoặc.
Nói rồi, vua cho mở kho lương cấp phát
khắp dân nghèo, miễn giảm sưu thuế, ân xá tội nhân. Trăm họ vui mừng một thời
thạnh trị.
Thế rồi, bỗng nhiên nạn dịch nổi lên khắp
nơi. Ngoài đồng đất đai khô nẻ, mùa màng thất bát, dịch bệnh hoành hành. Vua
lại ba đêm liền mộng thấy Bồ Tát cỡi cá kình như trước. Lần nầy Thừa Tướng
không nói gì thêm. Triều thần lặng lẽ chia sẻ nỗi lo canh cánh bên lòng cùng
nhà vua. Quan Thượng Thư Bộ Công tâu:
- Tâu bệ hạ. Lúc sắp băng, Tiên Vương có
nhắc đến Quốc Sư. Dám mong bệ hạ...
Triều thần đồng thanh “à” lên một tiếng.
Quốc Sư chính là Thanh Y Đạo Sĩ, người đã có công giúp Tiên Vương dẹp yên phản
tặc, giữ vững giang sơn.
Quốc Sư được triệu đến trước sân rồng. Hình đồ
âm dương bát quái màu trắng sắc nét trên chiếc áo thụng xanh. Quốc Sư nói:
- Tâu bệ hạ. Hình tượng cá kình được chạm
khắc lên cái vồ để đánh chuông, gọi là chày kình. Dẫn từ tích chép ở
sách Hậu Hán Thư: Trong biển cả có con cá lớn là cá kình, bên biển có
con thú là con bồ lao. Bồ lao rất sợ cá kình, hễ cá kình đánh bồ lao thì bồ lao
kêu vang lên. Vì thế, khi đúc chuông, muốn chuông kêu to thì khắc hình bồ lao
lên trên và làm cái vồ hình cá kình để đánh. Nay bệ hạ mộng thấy Bồ Tát cỡi cá
kình, thần cạn nghĩ, ấy là điềm bảo phải đúc chuông đó thôi.
- Vậy theo Quốc Sư, việc đúc chuông quan
trọng như thế nào? Quan Thừa Tướng chất vấn.
- Lễ Ký có câu: Nhạc giả thiên địa chi
hòa dã. Lễ giả thiên địa chi tự dã. Người xưa trên xem thiên văn, dưới nhìn
địa lý, thấu rõ được lẽ trật tự điều hòa của trời đất mà theo đó chế tác ra lễ
và nhạc. Nay nhờ đức nhân của bệ hạ mà trăm họ được bình an khương thái,
chính là lúc càng phải làm sáng rỡ thêm cái lẽ nhiệm mầu của lễ và nhạc. Trên
dưới phân minh, trước sau thành kỉnh, không gì ngoài lễ. Trong ngoài thảo
thuận, mới cũ điều hòa, phải dựa vào nhạc. Trong tám thứ tiếng ([1]) của tám loại nhạc cụ khác nhau thì đứng đầu là kim,
tức tiếng chuông. Nay bệ hạ muốn bày tỏ lẽ hòa trong thiên hạ, há chẳng
lấy việc đúc chuông làm trọng đó sao?
Vua cả mừng:
- Lời minh triết của Quốc Sư quả đã làm
đẹp lòng trẫm. Trẫm tài hèn đức mỏng, duyên may gặp được các khanh như cá gặp
nước, âu đó cũng nhờ hồng phúc của chư tiên đế vậy.
Đoạn, vua xuống chiếu giao cho Quốc Sư
chủ trì việc đúc chuông. Trăm họ đang khổ nhọc vì nỗi mất mùa, dịch bệnh, nay
còn phải gánh thêm việc gom góp đồ đồng đúc chuông. Bọn tham quan nhũng lại được
dịp hạch sách dân lành. Tiếng than van chẳng xiết. Nhà vua nóng lòng đúc chuông
nên nào hay nỗi thống khổ của trăm họ.
Quốc Sư cho gom hết các thợ đúc lại. Lệnh
trên ban xuống, ai nấy đều lo hoàn thành phần việc của mình, chẳng chút xao
nhãng. Đồ đồng được chuyển về kinh đô, chẳng mấy chốc đã chất thành một kho
lớn. Người qua kẻ lại tấp nập. Quốc Sư cho phân đồng thành nhiều loại. Đồng tạp
phải đun suốt bảy ngày liền để chỉ lấy ra chút ít đồng tinh. Cứ như thế, suốt
ba tháng trời ròng rã làm việc cật lực, cuối cùng chiếc chuông đồng như mong
ước của nhà vua đã được đúc xong. Chuông cao gần bảy thước, bề ngang gần ba thước,
được đặt ở điện Nhơn Hòa. Quốc Sư chọn ngày lành tháng tốt xin vua làm lễ khai
chung.
Lễ hạ nguyên năm đó cả kinh thành rực rỡ
đèn hoa. Nhà vua ngự giá đến điện Nhơn Hòa làm lễ tế Trời. Lễ xong, vua đánh
một tiếng chuông. Được giải thoát khởi vòng vây hãm bấy lâu giữa cõi vô hình
chật hẹp, tiếng chuông trở mình bật ra không trung. Sóng âm ầm ầm vang dậy khắp
các tầng trời. Kế đó, Quốc Sư thong thả tiếp thêm một hồi chuông dài. Giữa
thinh không nghe như có tiếng reo hò của muôn ngàn binh mã. Đâu đây có tiếng
sóng vỗ rì rầm, rồi tiếng binh khí chạm nhau loảng xoảng. Trời đang quang, bỗng
nhiên mây đen kéo tới, sấm chớp dậy trời, gió mưa mịt đất. Thế là lễ khai chung
hôm ấy đã kết thúc trong màn mưa ảm đạm...
Mưa gió dìm mọi vật trong biển nước, trăm
họ than khóc dậy trời. Vua lại sai đem lương thực trong cung ra cấp phát cho lê
thứ. Khi cơn hồng thủy rút lui, mặt đất hiện ra với bao tang thương điêu đứng.
Nhìn muôn dân khổ cực, vua đứng ngồi chẳng yên. Thế rồi ba đêm liền vua lại
mộng thấy Quan Âm Bồ Tát như trước. Lập tức vua cho thiết triều, nhưng quần
thần không có ý kiến nào làm đẹp lòng vua cả. Bãi chầu, Quốc Sư lặng lẽ trở về
thư phòng, suốt đêm trầm ngâm ngước nhìn thiên văn. Đêm ấy Thừa Tướng cũng
chong đèn đi tới đi lui, mang mang nỗi lo quốc gia đại sự.
Rạng ngày, vua lại cho thiết triều. Việc
giải nghĩa mộng triệu của nhà vua cũng chẳng đi tới đâu. Cuối cùng quan Thừa Tướng
tâu:
- Tâu bệ hạ. Quan Âm Bồ Tát xuất hiện ắt
có liên quan đến Phật Giáo. Dám mong bệ hạ cho triệu Không Không Đại Sư về
triều, may ra sẽ có cao kiến gì chăng.
Không Không Đại Sư nguyên là cao tăng
danh lừng cả nước. Khi tiên đế tin dùng các đạo sĩ thì Lão Giáo được nâng lên
thành hàng quốc đạo. Từ đó Phật Giáo không được triều đình trọng vọng. Không
Không Đại Sư dẫn một số đồ đệ lên tận núi cao ẩn mình tu luyện. Tuy vậy, cuộc
đời chân tu và trí tuệ uyên bác của Đại Sư vẫn là tấm gương chói ngời cho mọi
người kính mộ.
Nhà vua chuẩn tấu, định cử người đi thỉnh
Không Không Đại Sư thì bỗng có tin Đại Sư đã xuống núi và đang vào hoàng cung xin
triều kiến. Vua cả mừng, liền di giá ra tận ngoài thềm tiếp đón. Vua nói:
- Trẫm tài hèn đức mỏng, một bậc cao minh
như Đại Sư mà lâu nay trẫm không năng thỉnh giáo. Thật là thiếu sót!
- Bệ hạ quá lời, Không Không Đại Sư nói. Vâng
lời dạy của Quan Âm Bồ Tát, nay Bần Tăng hồi triều bái kiến bệ hạ, dám mong bệ
hạ hạ cố.
Thừa Tướng thuật lại việc vua nằm mộng,
việc hạn hán, việc đúc chuông, v.v...
- Tâu bệ hạ, Đại Sư nói. Đạo lý cốt yếu ở
chỗ hòa. Kinh Dịch có chép: Nhị nhân đồng tâm, kỳ lợi đoạn
kim. Hai người đồng lòng thì sức mạnh hợp lại giống như lưỡi dao sắc bén
cắt đứt được kim loại. Phàm mọi việc trong thiên hạ đều từ nơi hòa mà
nên, dựa nơi hòa mà vững. Đúc chuông là một việc nên làm. Nhưng lòng
người không thuận hòa thì tiếng chuông cũng chưa hài hòa được.
Nay trong thiên hạ nhơn tâm ly tán, trăm họ lao khổ, tham quan nhũng lại hoành
hành. Nếu không có kế sách gì, chỉ e hoàng triều cương thổ trở thành miếng mồi
ngon cho lân bang địch quốc mà thôi. Ngưỡng mong bệ hạ suy xét.
- Bàn đến việc trong thiên hạ phải xét
đến ba điều: thiên thời, địa lợi, nhân hòa, Quốc Sư đỡ lời nhà vua. Bần
đạo thường đêm xem thiên văn thấy sao bổn mạng của hoàng thượng tỏa sáng. Hoàng
thượng lại cai quản một dải giang sơn cẩm tú. Vậy là đã đạt thiên thời lẫn
địa lợi. Chỉ còn lòng người là chưa được hòa mà thôi. Nay được Không
Không Đại Sư về chầu lại thốt lên những lời vàng ngọc làm đẹp lòng hoàng thượng.
Mong Đại Sư vì sự an nguy của xã tắc mà vùa giúp triều đình.
- Tâu bệ hạ, Thừa Tướng tiếp lời. Lời của
Đại Sư và Quốc Sư thật chí phải. Mộng triệu của bệ hạ quả là điềm lành. Dám
mong bệ hạ xuống chiếu giao cho Đại Sư lo việc đúc chuông mới.
- Chẳng có việc đúc chuông nào cả, Đại Sư
khoát tay. Nếu người đã đồng tâm thì chuông cũng thuận theo người mà đồng âm.
Không sợ chuông không thanh âm mà chỉ sợ lòng người chưa đủ thành.
Vua cả mừng, truyền cả quần thần phải
chay tịnh mười ngày để cầu quốc thái dân an. Vua cho miễn sưu thuế, ân xá tội
nhân, xuất kho lương dự trữ cấp cho người cơ hàn. Khắp nơi trăm họ an lòng.
Chùa chiền lại vang rền tiếng kệ kinh. Một đại đàn cao ba trượng sáu thước, chia làm chín tầng được lập ở
điện Nhơn Hòa. Hai bên treo cờ cán thêu hai con rồng chầu và cờ thường thêu
hình mặt trời mặt trăng.([2]) Ở giữa treo cờ thất
tinh thêu chòm sao Bắc Đẩu. Tới lễ thượng nguyên, vua cùng Thanh Y Đạo
Sĩ và Không Không Đại Sư đăng đàn làm lễ tế Trời. Bá quan cùng dân chúng kinh
đô sấp mình dâng lễ. Cả rừng người đều một lòng thành kính.
Lễ xong, vua đánh một tiếng chuông. Trời
đang u ám bỗng rực rỡ ánh thái dương. Tiếng chuông thanh thoát ngân nga giữa
trầm hương ngào ngạt. Tiếng chuông khe khẽ len vào trái tim vạn loại. Nếp nhăn
dãn ra trên trán người ưu tư. Đau khổ vơi đi trong lòng người cô độc. Người
thiện thêm lành, kẻ ác bớt dữ. Cây cỏ phục sinh, đất đai thức tỉnh... Cứ thế,
tiếng chuông càng đi xa càng rung lên những âm thanh huyền diệu. Rồi trước khi
đi vào cõi vĩnh hằng, tiếng chuông còn trăn trở vọng lại một hồi âm nhỏ dần,
nhỏ dần: hòa... hòa... hòa...
Nhà vua hân hoan ôm choàng Đạo Sĩ và Đại Sư
mà rưng rưng nước mắt. Hiểu ra được lẽ hòa, từ đó vua càng chăm lo việc
triều chính. Lão Giáo, Phật Giáo và Nho Giáo đều được xiển dương. Nhà vua sáng
suốt, bá quan một lòng, trăm họ ấm êm, triều đại ấy đã để lại một nét son rực
rỡ trong lịch sử...
*
Ngày nay, du khách ghé thăm điện Nhơn Hòa
còn được nghe câu chuyện về chiếc chuông kỳ diệu. Theo thời gian mặt chuông đã
mờ dần cùng năm tháng. Thế nhưng tiếng chuông vẫn còn ngân nga một âm ba mênh
mang thiền vị thuở nào. Cho mãi đến muôn đời sau, trước khi đi vào cõi vĩnh
hằng, tiếng chuông vẫn còn trăn trở vọng lại một hồi âm di huấn: Hòa... hòa...
hòa...
LÊ
THANH VĂN
Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài
([1]) Bát
âm gồm tám loại: Kim: tiếng chuông
đồng, Thạch: tiếng khánh đá, Ty: tiếng đàn dây tơ, Trúc: tiếng sáo trúc, Bào: tiếng nhạc khí làm bằng vỏ quả bầu
(như đàn tính, đàn bầu), Thổ: tiếng
nhạc khí làm bằng đất nung, Cách:
tiếng mặt trống bịt da, và Mộc: tiếng
gỗ (như song loan, mõ).
[Đạo
Uyển chú]
([2]) Cờ cán và cờ thường là hai loại cờ được chép ở sách Chu Lễ. Cờ cán thêu hai con rồng chầu; cờ thường thêu hình mặt trời
mặt trăng. Theo lời chú trong bộ Chu Thư
thì ngày xưa vua may cờ thái thường
cho vẽ mặt trời mặt trăng, ghi tên những người có công trạng lên đó. Đào Duy Từ
(1572-1634) sáng tác bài Ngọa Long Cương
Vãn có hai câu thơ: Muôn đời nhân vật
kính khen / Để công trúc bạch chép tên kỳ thường. (Tham khảo mục từ cán thường trong Điển Cố Văn Học Việt Nam. Hà Nội: Nxb Khoa Học Xã Hội 1977, trang
58.)