Thánh Tòa Vô Vi Huỳnh Quang Sắc
(Ảnh: http://thanhthatcaodai.org)
Hôm nay, ngày 14-9 Bính Thân (Thứ Sáu 14-10-2016), Ban Cai Quản
và bổn đạo Thánh Tòa Vô Vi Huỳnh Quang Sắc trân trọng tổ chức lễ kỷ niệm tám
mươi mốt năm thành lập Thánh Tòa đồng thời tưởng niệm chư vị tiền bối đã dày
công xây dựng, gìn giữ và phát triển ngôi Thánh Tòa cùng các hoạt động đạo sự
nơi đây trong suốt mấy mươi năm qua.
Nhớ
lại năm xưa, khi ban ơn thành lập Thánh Tòa, Đức Chí Tôn đã dạy:
Chiếu sắc nữ nam hội tựu về
Chung tâm
hòa phái trẻ đừng xê
Ngày xuân khởi dựng, con vâng thửa
Lập Thánh Tòa sen hưởng cận kề.
Vậy, phải chăng, khi ban sắc lệnh xây dựng Thánh Tòa, Thầy đã
nhắc các môn đệ hãy luôn ghi nhớ tinh thần “chung tâm hòa phái” mà Thầy đã dạy
từ thuở mới khai Đạo: “Thầy đến lập Tam Kỳ
Phổ Độ, chỉ vụ một chữ Hòa…” ([1])
Ba mươi sáu năm sau khi Đức Chí Tôn ban ơn thành lập Thánh
Tòa, lại thêm một điểm son được ghi nhận trên dòng lịch sử của cơ đạo nơi đây,
đó là sự kiện Đức Mẹ ban ơn cho các đoàn thể nữ phái lúc bấy giờ cùng bắt tay
nhau tổ chức Đại Hội Hòa Đồng Nữ Đạo tại Thánh Tòa Vô Vi Huỳnh Quang Sắc
trong hai ngày 06 và 07-8 Tân Hợi (24 và 25-9-1971). Do đó, trong ngày đại lễ kỷ
niệm thành lập Thánh Tòa hôm nay, xin được nhắc lại ý nghĩa và tinh thần Hòa Đồng
Nữ Đạo đã được Đức Mẹ và các Đấng thiêng liêng giáng dạy cách đây bốn mươi năm
tại nơi này. Mặc dù tinh thần Hòa Đồng Nữ Đạo được Đức Mẹ dạy riêng cho nữ phái
nhưng xét cho cùng thì tinh thần hòa đồng này cũng vô cùng hữu ích và cần thiết
cho cả nam phái, cho toàn Đạo, cũng như cho toàn xã hội nhân loài, bởi lẽ hòa đồng
là yếu tố căn bản và tiên quyết để kiến tạo một thế giới hòa bình, hạnh phúc,
an lạc và văn minh tiến bộ.
Trước khi trình bày về ý nghĩa và tinh thần Hòa Đồng Nữ Đạo,
xin được nói sơ lược về nữ phái trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Chúng ta biết rằng trong đạo Cao Đài, nữ phái rất được Thầy Mẹ
và các Đấng thiêng liêng ưu ái, quan tâm, nâng đỡ, giáo hóa để giúp cho nữ phái
thoát ra khỏi những quan niệm chật hẹp thấp thỏi thường tình trong cuộc sống do
ảnh hưởng của tập tục xã hội từ lâu đời, để nữ phái có thể hướng về những mục
đích cao cả hơn của một kiếp được sinh ra làm người trên thế gian.
Đức Quan Âm Bồ Tát đã có lần bày tỏ lòng thương xót cho nữ
phái vẫn còn mãi quẩn quanh trong nếp sống nhi nữ thường tình:
“Bấy lâu nữ phái các em vẫn
không ra khỏi tam tùng, mà tùng trong xó bếp góc nhà, tùng ra trước ngõ, tùng
trước rặng rau, tùng sau luống sắn, có chi là rỗi rảnh để bàn đạo đức tu trì. Bần
Đạo lại nhìn vào đó càng thương hại cho tấm thân nhi nữ quá phải nhọc nhằn! Cuộc
đời nhi nữ quá đau thương!” ([2])
Một lần khác, Đức Bồ Tát nhận xét:
“Hiện nay, có hiền nữ còn
bao nhiêu sự đời trói cột: Nào con, nào chồng, ruộng vườn, nhà cửa, trâu heo,
suốt tháng tối ngày bao nhiêu vật ấy sai sử, cứ vâng vâng dạ dạ, phục vụ mãi mà
không chán không lờn. Ngoại cảnh: Lợi danh, đỉnh chung, vật chất câu nhử cuốn
lôi. Nội giới: Lục dục thất tình sai sử, mà các hiền nữ nào biết nào ngờ. Thân
phận khổ đau, linh hồn khốn đốn, nên bước ra nửa bước đã nhớ lại nhà, vắng một
phút một giây sợ của tiền trộm đạo, thì sao hưởng được hạnh phúc công bằng, sao
thấy được tự do chơn lý.” ([3])
Thế nên, ngay từ năm 1926, lúc đạo Cao Đài chưa chính thức ra
mắt trước nhơn sanh, khi mà trong xã hội Việt Nam cũng như trên toàn thế giới,
nữ phái vẫn còn bị phân biệt đối xử trong tinh thần trọng nam khinh nữ, thì Thầy
đã dạy các vị nữ tiền khai thành lập tổ chức nữ phái để dìu dắt nữ giới trên bước
đường tu công lập hạnh song hành cùng nam phái như sau:
“Đường Thị! ([4]) Thầy giao phái nữ cho con lập thành, chẳng
phải vì đàn bà mà sớm nồi cơm, chiều trả cháo hoài.
Phần các con truyền đạo kỳ phổ độ này cũng lắm nặng nề. Bao nhiêu
nam tức bấy nhiêu nữ. Nam biết thành Tiên Phật, chớ nữ lại không sao? Thầy đã
nói Bạch Ngọc Kinh có cả nam và nữ, mà phần nhiều nữ lấn quyền hơn nam rất
nhiều.” ([5])
Pháp Chánh Truyền đạo Cao Đài quy định cho nữ giới được đứng
vào hàng giáo phẩm Cửu Trùng Đài cho tới bậc Đầu Sư cũng là một điểm hết sức đặc
biệt của Hội Thánh Cao Đài.
Việc mở cửa tâm pháp thâu nhận phụ nữ, việc lập ra tổ chức nữ
phái để giúp nữ giới nâng cao trình độ tu học giáo lý và tham gia các hoạt động
xã hội, từ thiện, v.v… đều thể hiện chủ trương nam nữ bình quyền của đạo Cao
Đài.
Thêm vào đó, các Đấng thiêng liêng trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
vẫn thường khích lệ nữ phái qua các lời dạy như:
Nữ nam phân
cách bởi hồng trần
Diện mạo hình hài với xác
thân
Bổn tánh chơn như đâu có
khác
Nữ phái
cùng nam trách nhiệm đồng
Chớ nên xem nhẹ đám quần
hồng
Nung gan dốc chí trên đường
đạo
Nữ nam âu cũng một chơn linh
Đều thọ sắc ban chốn thượng
đình
Xuống thế lập công tu tự
độ
Sứ mạng Tam
Kỳ quá nặng mang
Nữ lưu em hỡi tiến lên
đàng
Ngày qua đóng chặt thân
phàm tục
Trải qua thời gian, các tổ
chức nữ phái trong đạo Cao Đài đã lần lượt được thành lập để hướng dẫn nữ giới
trên bước đường tu học, hành đạo, thực thi sứ mạng cứu độ nhân sinh, bao gồm
các đoàn thể như: Nữ Chung Hòa Phái, rồi Nữ Chung Hòa, Diêu Trì Phái, Nữ Đoàn Đại
Đạo. Tuy nhiên, các đoàn thể này hoạt động riêng rẽ, rời rạc.
Thế nên, để gia tăng hiệu
quả của việc tu học và hoạt động cứu độ nhơn sanh của nữ phái, vào những năm
1969, 1970, Đức Mẹ đã gieo ý thức chung tâm hợp quần cho các tổ chức nữ phái
trong đạo Cao Đài lúc bấy giờ. (Không chỉ gieo ý thức cho riêng nữ phái mà cho
toàn các chi phái đạo Cao Đài).
Đất nước Việt Nam chúng
ta vào ba thập niên 50, 60, 70 của thế kỷ trước đang chìm đắm trong cảnh đạn
bom khói lửa, nhà tan cửa nát, con mất cha, vợ mất chồng, gia đình ly tán. Biết
bao sanh linh cần đến sự cứu giúp của những tấm lòng từ ái, những bàn tay dịu
hiền. Các đoàn thể tôn giáo lúc bấy giờ đều tích cực hoạt động cứu trợ nạn nhân
chiến cuộc. Tuy nhiên, muốn đạt được hiệu quả cao trong công quả cứu tế, cần phải
có sự chung tâm hợp quần giữa các đoàn thể. Do đó, Đức Mẹ dạy:
“Các con là những thành phần giác ngộ trước hết, các con đã biết nghe lời
dạy của Chí Tôn Thượng Đế và của chư Phật Tiên, các con đã thể hiện được trong
muôn một tình thương của Thượng Đế. Dầu rằng các con đã làm được ngần ấy nhưng
chưa xoay chuyển được cuộc đời từ đọa lạc trở nên hạnh phúc. (…) Tình thương đồng đạo, đồng bào, đồng chủng
các con đã có, nhưng tình thương ấy các con đã giới hạn nó trong những dấu chân
trâu, thế nên chưa hòa đồng lẫn nhau giữa dấu chân này và dấu chân khác. Những
hột muối tình thương các con quá nhỏ, trong lúc ao hồ, sông rạch nước loãng
mênh mông, thế nên vị muối không còn nguyên chất của nó. Các con có hợp đoàn hướng
thiện, có hợp quần để xiển dương đạo lý mới đem lại sự kiến hiệu của vấn đề.
Các con ôi!
Nói chung cho toàn đạo và nói riêng cho đoàn thể nữ phái của các con, đã và
đang vương mang một chứng bịnh đồng nhứt, đó là chứng bịnh lãnh tụ phe nhóm.
Suốt mấy
mươi năm trời khai đạo, truyền đạo, đã có nhiều phong trào được dựng nên mang
những danh từ tốt đẹp như Liên Hòa, như Hiệp Nhứt, như Quy Nhứt, như Thống Nhứt,
như Hòa Đồng, v.v… Chỉ một danh từ trong những danh từ ấy thôi, nếu tất cả biết
giá trị của sự hợp đoàn, thể hiện đúng mức chủ trương mục đích của nó, thì đạo
đã thống nhứt lâu rồi, và cơ truyền giáo độ đời đã thịnh hành vượt bực rồi,
không còn như cảnh huống ngày nay.
Nói gần nhứt
là mấy năm gần đây, các con trong nhiều đoàn thể đạo đã nêu lên những danh từ
thiết thực, như Liên Giao Hành Đạo, Nữ Chung Hòa, Nữ Đoàn Đại Đạo, Diêu Trì
Phái, v.v…. Các con chưa làm nên và đúng mức của danh từ ấy, bởi tình thương của
các con như những vũng nước nơi dấu chân trâu, óc lãnh tụ phe nhóm của các con
gần bằng núi Thái Sơn.” ([10])
Thế nên, Đức Mẹ đã dạy
các đoàn thể nữ phái Cao Đài lúc bấy giờ gồm Nữ Chung Hòa, Diêu Trì Phái, Nữ
Đoàn Đại Đạo hãy cùng bắt tay nhau tổ chức Đại Hội Hòa Đồng Nữ Đạo. Ý nghĩa của
Đại Hội này được Đức Mẹ giảng dạy cặn kẽ:
“Hòa Đồng Nữ
Đạo là một hồi chuông chuyển hóa nữ phái khai tâm, ([11]) cùng khẳng nhận được việc đạo là việc chung, cùng hòa nhau để
phụng sự vạn linh mà các con nữ phái đóng một vai trò quan trọng đối với cơ đạo
ngày mai. Các con cũng ý thức được chữ hòa như thế nào. Các con cũng ý thức được
sự thương yêu ra sao. Nếu các con thành thật hòa nhau, thương nhau, các con lo
gì không sáng tạo được một thế hệ mới của nữ phái ngày mai.” ([12])
Theo Từ Điển Tiếng Việt (của Viện Ngôn Ngữ Học Hà Nội), Hòa là hòa lẫn vào nhau, nhập làm một, đến
mức không còn thấy có sự phân biệt nữa. Hòa
còn có nghĩa là không có mâu thuẫn hay xung đột trong mối quan hệ giữa các cá
thể với nhau.
Vậy, muốn đạt được chữ hòa
cần phải có tình thương, bởi lẽ “Thương nhau chín bỏ làm mười” hay “Thương nhau
trái ấu cũng tròn”. Thế nên hòa là hòa ái yêu thương, hòa hiệp với nhau thành một
khối, không phân biệt ta người, sang hèn, giàu nghèo, thấp cao, khôn dại, không
phân biệt chủng tộc, tông phái, v.v… để cùng nhắm vào một mục đích chung tối
thượng là đem lại sự sinh tồn, an vui, hạnh phúc cho mọi người nơi thế gian.
Hòa là một tiềm lực sinh
động tạo nên mọi sự mọi việc. Trong thân thể con người, ngũ tạng lục phủ có hòa
thì con người mới khỏe mạnh. Ngoài trời đất có mưa thuận gió hòa thì vạn vật mới
sinh tồn phát triển, cây trái thạnh mậu sum sê. Giữa con người và con người, giữa
quốc gia và quốc gia, giữa đoàn thể và đoàn thể, giữa tôn giáo và tôn giáo có
hòa thì thế giới mới thái bình an ổn. Có hòa rồi thì mọi việc dù khó đến đâu
cũng có thể thành công như lời Đức Mẹ dạy:
Nữ Chung
Hòa hòa đồng nhứt thể
Có hòa rồi tát bể cũng
vơi
Lòng Trời chính là lòng thương yêu trùm khắp không phân biệt
sang hèn, giàu nghèo, thấp cao, dại khôn, dữ hiền. Lòng Trời ấy đúng như lời
Chúa Giêsu Kitô dạy là lòng của Đấng “cho
mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống
trên người công chính cũng như kẻ bất chính.” (Matthêu 5:45)
Nói một cách khác, muốn đạt được chữ hòa thì đừng chấp nê, đừng
nhìn vào những danh từ, hình thức khác biệt mà hãy nhìn vào những điểm tương đồng
giống nhau, quan trọng nhất là sự đồng tâm, đồng chí hướng, đồng mục đích.
Đức Mẹ đã cho chúng ta ví
dụ về chữ đồng như sau:
“Các con
ơi! Các con mỗi đứa đến giờ cúng đều niệm một danh Thầy danh Mẹ; đồng một chí hướng là tu thân hành đạo,
lập công bồi đức, một kiếp làm người cho được vẹn tròn công viên quả mãn hầu
ngày kia trở về cùng Thầy cùng Mẹ; đồng
một mục đích hoằng dương đạo pháp phổ độ nhơn sanh để xây dựng đời thượng nguơn
thánh đức trong đất Thuấn trời Nghiêu an lạc thái hòa; đồng một quan niệm xây dựng thế hệ con em mầm non tiếp nối sự nghiệp
đạo đức theo luật tre tàn măng mọc; đồng
nhìn nhận chủ thuyết Tam Giáo đồng nguyên, vạn giáo nhất lý; đồng một ý thức giữ gìn giới luật, Tứ Đại
Điều Quy và Ngũ Giới Cấm, cũng như thực hành Bát Chánh Đạo; đồng thờ phượng một kiểu mẫu Thiên Bàn;
đồng tụng đọc những bài kinh nhựt tụng;
đồng mặc một sắc đạo phục bạch y. Các
con đồng một ý thức cải tà quy chánh
hướng thiện tu thân, để đoạn trừ nghiệp cũ và không tạo nghiệp mới để sớm giải
thoát trần duyên. (…)
Các con
ngoan lắm! Biết chọn đường đi lối tiến, nhưng các lối tiến ấy phải là lối tiến
cùng chung chớ không phải là lối tiến rẽ bước chia đàng. Có cùng chung để anh
ngã em nâng, chị dìu em bước. Con hằng nguyện Đại Đạo hoằng khai, phổ độ chúng
sanh cho thiên hạ thái bình, nhưng muốn được thái bình, phải trong đường lối
quy nhứt đoàn kết thương yêu.” ([15])
Xét trên bình diện rộng lớn hơn là xã hội nhân loài, tất cả mọi
người trên thế gian đều có đồng một Đấng Cha chung là Đức Chí Tôn Thượng Đế hay
Đức Chúa Trời, Đức Allah; đồng thọ bẩm một điểm linh quang từ Đức Thượng Đế (Đại
Linh Quang) đó là Thượng Đế tính (tính Trời) hay Phật tính; có đồng một sứ mạng
vi nhân tức là sứ mạng làm người trên cõi thế.
Vậy, cốt lõi của tinh thần
Hòa Đồng Nữ Đạo chính là sự đồng tâm hòa hiệp chung lo cứu đời, dẹp bỏ mọi tỵ
hiềm đố kỵ ghét ganh và tư kiến sai lầm, không chấp nê vào danh từ tổ chức này
hay tổ chức nọ, Hội Thánh này hay Hội Thánh kia, mà hãy nhắm vào mục đích
chung, ai làm cũng được, miễn là việc làm ấy có ích lợi cho nhơn sanh, cho cơ đạo.
Về điểm này, Đức Mẹ dạy:
Rõ được Đạo chí thành sáng tạo
Đồng lo chung hoài bão kỳ này
Đã nhìn một Đạo một Thầy
Nỡ nào phân cách chơn tay cho đành.
Đừng có ý chống kình ganh tỵ
Việc chung lo phải nghĩ Đạo Trời
Không vì sự việc mỗi nơi
Đức Quan Âm Bồ Tát cũng dạy:
“Chư hiền
muội nên ý thức rằng: mọi danh từ, mọi hình thức, mọi sắc thái trên thế gian
này đều là cái giả. Sở dĩ tạm mượn để mà gọi, để mà hành, còn điều tối quan trọng,
đó là sự cứu cánh và sự kết quả của vấn đề.” ([17])
Đức Bồ Tát cho chúng ta
vài thí dụ cụ thể về tinh thần hòa đồng không phân biệt nhắm vào một mục đích cứu
cánh chung. Bồ Tát dạy như sau:
“Một thí dụ
như một món bánh có người thợ làm bánh phải dùng đến các vật liệu, dụng cụ để
tác thành món bánh. Tuy rằng trên nguyên tắc đã có hoạch định, tạo công thức một
tỷ lệ nào cho số vật liệu, đến khi thành cái bánh, mặc dầu cho màu sắc không được
giống, hình thức không được giống, hương vị không được giống như sách đã dạy,
nhưng cứu cánh và kết quả của vấn đề là làm thế nào cho thực khách thưởng thức
được món bánh ấy qua cơn đói lòng.
Một thí dụ
khác nữa: Đó là công cuộc xây cất một ngôi nhà. Một khi kiến trúc sư đã vẽ thành
họa đồ tỷ lệ giao cho nhiều nhà thầu khoán xây cất nhiều ngôi nhà. Dầu những
người thầu khoán ấy quốc tịch có khác nhau, ngôn ngữ có khác nhau, phương tiện
xây cất có khác nhau, vấn đề chánh phải là làm sao khai triển bản họa đồ ấy cho
đúng tỷ lệ kích thước của kiến trúc sư đã định. Như vậy, dầu không ai đòi hỏi,
các ngôi nhà ấy vẫn giống như nhau, từ hình thức đến khuôn khổ và cái tác dụng
của nó là các gian phòng ốc đều cất có một cách như nhau. Như vậy, vấn đề quốc
tịch, ngôn ngữ và phương tiện có khác nhau giữa những người thầu khoán không
thành vấn đề.” ([18])
Cũng theo lời dạy của Đức
Quan Âm Bồ Tát, tinh thần Hòa Đồng Nữ Đạo chính là hạt giống để phát triển
thành tinh thần hòa đồng vạn giáo hay đại đồng nhân loại.
Đức Bồ Tát dạy:
“Điều thứ nữa là Bần Đạo
muốn đề cập tới vấn đề sứ mạng trong tương lai lâu dài của Hòa Đồng Nữ Đạo. Đó
là tiêu ngữ của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ: Tam Giáo Quy Nguyên, Ngũ Chi Phục Nhứt.
Sự quy nguyên phục nhứt ấy không phải chỉ gò bó trong phạm vi nhỏ hẹp của đạo
Cao Đài hay trong phạm vi dân tộc Việt Nam. (…)
Để đi đến mục đích lớn rộng
ấy là quy nguyên phục nhứt, trước hết phải bắt đầu quy nguyên phục nhứt từ phạm
vi nhỏ hẹp giữa cá nhân và cá nhân, giữa tập thể và tập thể, giữa giáo hội và
giáo hội, giữa hội thánh và hội thánh, giữa quốc gia và quốc gia. Chớ nếu giữa
cá nhân và cá nhân chưa cùng sự hòa hiệp thương yêu, giữa tập thể và tập thể
chưa được hòa hiệp thương yêu thì làm sao mong đạt đến sự quy nguyên phục nhứt
trong đại đồng tôn giáo, đại đồng nhân loại.
Muốn đạt được cái đích tối
thượng ấy, từ cá nhân của hàng tín hữu, từ cá nhân của hàng Thiên ân hướng đạo,
phải vượt ra cái chấp. Có phá chấp mới mong đi đến đại đồng.
Cái chấp ấy là chi hỡi
chư hiền muội?
Chấp ấy là chấp danh từ,
chấp hình thức, chấp nhân ngã. Những danh từ, hình thức, và nhân ngã ấy là những
chướng ngại vật to tướng cản lối ngăn đường cho các hàng Thiên ân hướng đạo.
Có lãnh hội được như thế,
biết được như thế thì không nên chấp cái danh từ, cái ngã, cái nhân, và cái
hình tướng để đi đến đại đồng nhân loại, thể hiện cùng thực hiện tình thương của
Tạo Hóa dưới ánh thái dương muôn thuở này.
Mỗi cá nhân, mỗi tập thể,
mỗi tổ chức phe nhóm đều ý thức được như vậy mới mong đạt được lý quy nguyên phục
nhứt.” (17)
Trong ngày Đại hội Hòa Đồng Nữ Đạo năm xưa tại Thánh Tòa Vô
Vi Huỳnh Quang Sắc, Đức Vân Hương Thánh Mẫu đã bày tỏ lòng mong ước:
“Chị mong rằng ý nghĩa
Hòa Đồng Nữ Đạo sẽ thấm nhuần vào tâm đạo của mỗi em để tinh thần Hòa Đồng Nữ Đạo
bất diệt bất biến, để ứng phó thiên vạn biến hầu hoàn thành sứ mạng Tam Kỳ Phổ Độ
của một đàn con yêu quý thiêng liêng từ Ngọc Hư Cung chuyển thế.” ([19])
Người môn đệ Cao Đài chúng ta ghi nhớ lời dạy của Đức Thánh Mẫu
để rồi cùng nhau phát triển tinh thần Hòa Đồng Nữ Đạo thành tinh thần Hòa Đồng
Vạn Giáo và Đại Đồng Nhân Loại để mang lại một cuộc sống thanh bình, hạnh phúc,
an lạc và văn minh tiến bộ cho khắp cõi nhân gian. Đó cũng chính là niềm mong mỏi
của Đức Chí Tôn Thượng Đế và Đức Từ Tôn Kim Mẫu khi khai mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ
Độ.
Sau cùng, xin ghi nhớ lời Đức Từ Tôn Kim Mẫu:
Trước sứ mạng
Cao Đài cứu thế
Trong tinh thần huynh đệ
đại đồng
Trân trọng kính chúc toàn thể quý vị được dồi dào sức khỏe,
bình an, hạnh phúc và thành công trong tinh thần chung tâm hòa ái phụng sự chánh
pháp, phụng sự xã hội.
DIỆU NGUYÊN
Huỳnh Quang Sắc, 14-10-2016
vị nguyên
nhân: Nữ
cũng là bậc nguyên nhân nên cũng có ngôi vị cũ trên cõi trời trước khi xuống thế
gian tu học hành đạo độ đời.