Thứ Ba, 17 tháng 1, 2017

ĐĐVU 21 / THƯỞNG NGOẠN MAI VÀNG / Bác sĩ NGUYỄN ANH HUY


Ochna integerrima 02.JPG

Ảnh: Prenn (vi.wikipedia.org)

Nghêu ngao vui thú yên hà
Mai là bạn cũ, hạc là người quen.
Tương truyền đây là câu thơ chữ Nôm do sứ thần Việt Nam Nguyễn Du (1766-1820) viết lên bộ đồ trà Mai Hạc làm năm Giáp Tý (1804) lúc đi sứ sang Trung Quốc.
 
Đĩa Mai Hạc.
Vốn sinh trưởng trong một gia đình chơi cổ ngoạn ở Huế, ngay từ nhỏ tôi đã ngắm nghía những cánh mai vàng lác đác trên sập gụ cạnh những khay trà đĩa mứt... Nay nhân tình cờ nghe bài nhạc “Anh cho em mùa xuân / Nụ hoa vàng mới nở...” ([1]) trong tôi lại bùng phát những ký ức xa xưa... Đúng “Mai là bạn cũ”...
Nói về mai thì có hai loại.
Một loại mai có tên khoa học là Prunus mume, thuộc chi mận mơ (Prunus) thuộc họ hoa hồng (Rosaceae), xuất phát từ Trung Quốc, lan qua Nhật Bản và miền Bắc Việt Nam, có hoa màu trắng và trái (hay gọi là mơ) để làm ô mai; đây chính là loại hoa mà các tao nhân mặc khách hay nhắc trong điển tích, văn thơ Trung Quốc ([2]) như: Đạp tuyết tầm mai, tuế hàn tam hữu, tứ quý (mai lan cúc trúc)
Loài mai thứ hai có tên khoa học là Ochnaceae, như hoàng mai (hoa màu vàng). Trên thế giới khoảng năm mươi loại mai vàng rải rác ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, song tập trung chủ yếu ở Đông Nam Á và châu Phi. Ở Việt Nam, mai vàng dễ tìm thấy ở rừng Trường Sơn là một loài cây cảnh phổ biến từ miền Trung trở vào. Loài này cũng có rất nhiều loại; ở đây, tôi chủ yếu đề cập đến loại mai vàng năm cánh mà người ta hay gọi là mai Huế, mai ngự, mai hương…
Việc miền Bắc chơi đào, miền Nam chơi mai đón tết, được người ta truyền rằng sau khi Nam tiến, mỗi lúc xuân về, những người đi khai hoang nhớ đến cành đào ngoài Bắc nhưng không thể có được, vì miền Nam vốn có khí hậu nóng không thích hợp với việc trồng đào, nên đã chọn cành mai để thay thế.
Cổ tích Việt Nam kể rằng ngày xưa có cô bé rất yêu màu vàng và chơi thân với ông Táo. Cô thường dũng cảm giúp cha đi giết ác thú để bảo vệ xóm làng. Trong một lần thay cha chiến đấu với quái vật, cả hai đều chết. Ông Táo thương cô bé có lòng nhân ái, liền xin với Ngọc Hoàng cho cô bé sống lại mỗi năm chín ngày từ chiều 29 tết để đoàn tụ với gia đình. Sau khi cha mẹ cô qua đời, cô không trở về hạ giới nữa mà biến thành cây mai vàng mọc trước đền người dân lập thờ nàng; và cũng như trước, mỗi năm mai vàng nở hoa khoảng chín ngày chính là lúc cô về thăm làng xưa xóm cũ...
Truyền thuyết và sự tích hoa mai kể trên, cho biết quá trình thưởng ngoạn mai vàng được hình thành trong quá trình Nam tiến và khẩn hoang. Trong lịch sử dân tộc có những đợt Nam tiến và khẩn hoang lớn: Đó là đợt tiếp nhận châu Ô và châu Lý để chuyển thành Thuận và Hóa vào năm 1306, và đợt thứ hai là trấn thủ Thuận Hóa vào năm 1558 do Thái Tổ Nguyễn Hoàng dẫn đầu. Nhưng theo Ô Châu Cận Lục của Dương Văn An viết từ năm 1555 đã có ghi chép về cây mai vàng: “Mai ở Lệ Sơn cốt cách phong lưu như ở Dữu Lĩnh. Trúc ở Lễ Sơn nào kém trúc ở Tiêu Tương… Hoa cúc khinh sương, vào thu càng già cốt cách… Phàm cỏ hoa có điều ngụ hứng, sản vật ấy đây đã có nhiều.” ([3]) Điều này chứng tỏ trước đó rất lâu, việc thưởng ngoạn mai vàng là do người Việt đã phát hiện được,([4]) và rất có thể việc chơi mai ngày tết ở đây là do quân lính trấn giữ biên cương Đại Việt từ thời Trần (1306), khi mang tâm sự:
Con biết bây giờ mẹ chờ tin con / Khi thấy mai đào nở rộ bên hiên / Năm trước con hẹn đầu xuân sẽ về / Nay én bay đầy trước ngõ, mà tin con vẫn xa ngàn xa... ([5])
Từ lâu hoa mai đã đóng một vai trò quan trọng trong văn hóa Á Đông, được mọi người chiêm ngưỡng, tượng trưng cho những gì đẹp đẽ thanh tao. Mỗi khi mai nở rộ là dấu hiệu mùa xuân đang về làm lòng người nao nao, rộn ràng. Ngày tết Nguyên Đán thiếu vắng hoa mai là một sự thiếu sót rất lớn mà mọi người đều mặc nhiên công nhận. Và thú thưởng ngoạn mai vàng có thể đã xuất hiện ở Huế hơn bảy trăm năm cùng lúc với sự ra đời của Thuận Hóa...
Người xưa cho rằng có ba hạng bạn hữu có ích là bạn ngay thẳng, bạn rộng lượng và bạn hiểu biết nhiều; trên cơ sở đó đã mượn hoa để gởi gắm tâm tư và xếp mai, tùng, trúc thành ba người bạn có ích, gọi là ngự sử mai, trượng phu tùng và quân tử trúc; khí tiết của ba loài cây này biểu hiện cho cái đẹp chân thiện mỹ, chịu được sự khắc nghiệt của phong ba giá rét, nên còn gọi là tuế hàn tam hữu (ba người bạn mùa đông). Ngoài ra, mai còn được người xưa yêu quý xếp vào tứ quân tử là:
- Mai: Trong khi những loài hoa khác chưa nở ngay từ tiết Lập Xuân giá lạnh, mai là loài hoa nở đầu tiên (chiếm “bảng xuân”), nên được xưng tụng là bách hoa khôi (nở dẫn đầu trăm hoa), tượng trưng cho cốt cách thanh nhã của người quân tử; cho nên Nguyễn Trãi ưa mày vì tiết sạch hơn người” và cho rằng: Huống lại bảng xuân xưa chiếm được / So tam hữu chẳng bằng mày.
- Lan: Còn gọi là vương giả chi hoa (hoa vương giả) khi nở giữa đám cỏ dại mùa hè; bởi thế lan tượng trưng cho người quân tử bất đắc chí.
- Cúc: Còn có tên là tiết hoa, không chịu nở cùng với các loài hoa khác, chỉ nở vào tiết thu lạnh lẽo; do sự biệt lập đó mà tượng trưng cho tiết tháo của kẻ sĩ, không a dua siểm nịnh.
- Trúc: Tiết trực tâm hư (bề ngoài thẳng thắn nhưng trong lòng rỗng, vô tư) là một loài nửa thảo nửa mộc, không cương không nhu... tượng trưng cho bậc chính nhân quân tử.
Riêng về mai vàng ở Huế, tên tiếng Anh là Vietnamese mickey-mouse plant, tên khoa học là Ochna integerrima, thuộc họ Ochnaceae.
Đại Nam Nhất Thống Chí, phần Loại Hoa (thổ sản) ở kinh sư (Huế) viết: “Hoa bạch mai: Cây và lá giống cây mận, hoa trắng mà thơm… Hoa hoàng mai: Tục gọi là bông mai vàng. Bản Thảo [Cương Mục] chép là lạp mai. Kính xét: Bài thơ “Vịnh Hoàng Mai” trong Minh Mệnh Thánh Chế có lược chú rằng thân cây cứng và thẳng, lá xanh lợt mà sáng mịn, nhọn dài, hoa có năm cánh, nhị như ngọc, lòng hoàng đàn, cũng giống mai trắng, nhưng sắc vàng thẫm và thơm hơn; khi hoa rụng thì cuống khô, biến thành sắc hồng, lại giống như hoa, khác hẳn các loại hoa khác. Mai vàng ở Sa Sơn đạo Quảng Trị có nhiều…([6])
Ở đoạn sử liệu này có một vấn đề cần bàn. Có thể đây là loại mai hoa trắng cùng họ với mai vàng, chứ không phải loài mai (mơ) của Trung Quốc; nhưng người Việt kiêng cữ màu trắng nở ngày tết, do đó ít ai trồng. Song sự mô tả ở dòng sử liệu khá rõ là Hoa bạch mai: cây và lá giống cây mận”, tức sự ghi chép ở đây nghiêng về loài mai (mơ) hơn. Chúng ta hoàn toàn biết rõ ở Huế không hề có mai trắng (mận mơ), nhưng sử ghi về “Loại Hoa” đã chép về “bạch mai”, trong khi ở miền Bắc Việt Nam thì trồng đầy loại mai mơ này, nhưng phần “Thổ Sản” ở đây không hề ghi chép gì về chúng. Điều này chứng tỏ Quốc Sử Quán triều Nguyễn đã biết chọn lọc rõ, mai mơ (hoa trắng) xuất xứ từ Trung Quốc, nên không thể đưa vào thổ sản Việt Nam mà chỉ nêu ra cây mai trắng mục đích để so sánh với mai vàng Việt Nam; vì như ta thấy khi viết về “hoa hoàng mai”, các sử gia đã nói: “… cũng giống mai trắng, nhưng sắc vàng thẫm và thơm hơn!”
Chắc hẳn các bạn còn nhớ hương thơm của mai khi tỏa ra đã cho lộc may đầu năm? Và ở Việt Nam có loài mai vàng năm cánh hương thơm lại đậm hơn những loài mai khác nên được gọi là “mai hương”. Tao nhân mặc khách thưởng ngoạn hoa mai, không chỉ nhìn sắc màu vàng rực, mà là sự bâng khuâng nơi hương ngầm của hoa: Không thắm đượm như hoa hồng, không nồng ngát như dạ lan, không âm thầm như hoa ngâu… Hương mai rất nhẹ nhàng, thanh cao rất khó thưởng thức. Phải người tinh nhạy lắm mới cảm thấy vì là một thứ “ám hương”, nếu tâm tình con người vọng động thì khó mà cảm nhận được. Đặc biệt khi tiết trời càng lạnh, khiến cho mai càng tỏa hương thơm nên còn gọi là “lãnh hương”, và chính điều đó làm cho ta yêu quý mai vàng hơn. Thử đọc bài “Mai Hương” của Hoàng Mai Phi:
Mai cành búp nở chào xuân,
Hương vàng nắng tỏa từng cân trên ngàn.
Mai em có nhớ tiếng đàn,
Hương thơm đừng chất phũ phàng theo mưa.
Mai về anh nhớ năm xưa,
Hương thầm quyện lối so vừa bước chân.
Mai còn lắng đọng ngoài sân,
Hương thơm lơ lửng chào xuân hoa vàng.
Mai đây em có ngỡ ngàng,
Hương thơm đọng lại bóng chàng yêu thơ.
Mai em còn nhớ hay mơ,
Hương ơi! Hãy nhớ vần thơ anh làm.
Mai kia vẫn nở rộn ràng,
Hương êm vẫn khép nép vàng dễ thương.
Mai hoa còn khép mùi hương,
Hương thơm đọng lại liễu nhường hoa mai.
Không những đã gây rung cảm tạo văn hóa thưởng ngoạn, kể cả giới tu hành như:
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.([7])
莫謂春殘花落盡 / 庭前昨夜一枝梅
(Ðừng bảo xuân tàn hoa rụng hết,
Đêm qua sân trước một nhành mai.)
cũng không những là nguồn cảm hứng gây tức cảnh sinh tình:
Nhất thụ mai hoa, nhất thụ ngọc,
Bán sàng minh nguyệt, bán sàng thi.([8])
一樹梅花一樹玉 / 半床明月半床詩
(Một gốc hoa mai, một khối ngọc,
Nửa giường trăng chiếu, nửa giường thơ.)
mà hoa mai còn là niềm ao ước của các cao nhân: Đào Tấn (1845-1907), khi lên đỉnh Mai Phong tìm đất thọ, đứng trên mỏm đá lặng yên cười:
Mai sơn tha nhật tàn mai cốt,
Ứng hữu mai hoa tác mộng hồn.
梅山他日藏梅骨 / 應有梅花作夢魂
(Núi mai rồi gửi xương mai đấy,
Ước mộng hồn ta hóa đóa mai.)
Do mai vàng là hóa thân của người khai canh bảo vệ xóm làng, nên thường được trồng ở sân đình chùa miếu mạo, và trong tâm thức người Việt, đây là một loài hoa chưng tết chủ đạo, ai cũng mong nụ mai nở ngay vào đêm giao thừa rồi kéo dài suốt những ngày xuân cùng những lá non nẩy lộc tươi mát mới; lại thêm chữ “mai” đồng âm với chữ “may (mắn)” ([9]) cho nên cây mai được xem như là linh vật cát tường mang lại điềm thịnh vượng, phát lộc, phát tài, hạnh phúc, sung túc cho gia đình hay đoàn thể khởi sự một chu kỳ mới. Ngược lại, người ta rất kiêng cữ nếu cành mai không nở hoặc héo rũ đúng ngày mồng một tết. Từ đó sinh ra tục “bói mai” để đoán hậu vận khi xem cây mai nở hoa như thế nào.
Về triết lý nhân sinh, là hóa thân từ cô gái nên mai thường biểu hiện cái nét duyên dáng, đoan trang, hiền hậu của người phụ nữ (mai nữ), nhưng cô gái ấy rất dũng cảm, có chí nam nhi nên cũng lại biểu hiện cho đấng quân tử. Vì xuất thân từ núi rừng nên còn được gọi là mai núi, và do phải chen tìm đất sống với những cây khác ở địa thế khắc nghiệt trong cuộc sinh tồn nên dáng cây có vẻ đẹp đặc biệt, hoa lại có nhiều cánh rực rỡ... Nguyễn Du đã dùng mấy chữ “Mai cốt cách, tuyết tinh thần”, ngụ ý nói bất cứ hoàn cảnh nào mai cũng là “người” có tiết tháo, cho nên trồng ở loại đất gì cũng sống. Với hàm ý như vậy, mai được trồng rộng rãi trong vườn nhà, làm cây cảnh trong chậu (bonsai). Tuy nhiên để có được hoa mai nở như ý và khoe sắc suốt những ngày đầu xuân, và có cây mai đẹp là điều không phải dễ dàng...
Mai vàng cũng còn được gọi là lạp mai, vì lạp nguyệt 臘月 là tháng Chạp, lúc đó, người chơi mai vàng bắt đầu chuẩn bị dồn sức để cuối tháng thì cây mai ra hoa... Mai chuộng ánh sáng và đất ẩm, người ta thường canh ngắt lá đúng ngày để dồn nhựa cho các nhánh ra hoa vào đúng dịp tết. Ngắt lá là một nghệ thuật vì nếu lá ngắt đi không đúng lúc sẽ ảnh hưởng đến ngày hoa nở.
Ngoại trừ trồng mai thẳng tự nhiên trước nhà, ta không bàn; riêng về mai bonsai thì có thể nói đây là một tác phẩm nghệ thuật điêu khắc mà chất liệu là thân cây, cành, tán lá, hoa, gốc và rễ cùng với môi trường (đất, chậu). Người xưa bảo “Vô nữ bất thành mai, vô thập bất thành tùng” hay nói gọn là “Mai nữ, tùng tử”, nghĩa là thân mai phải có những nét cong thanh tú như người phụ nữ thì mới đẹp, còn cây tùng thì phải cứng cáp sần sùi như người đàn ông thì đẹp… Và người ta thường tạo dáng theo chủ đề tư tưởng:
1. Thế Trực: Thân cây thẳng đứng, đôi khi người ta còn gọi là thế Tùng lập, Nhất trụ kình thiên… biểu hiện sự chính trực của người quân tử.
2. Thế Mai Nữ: Thân cây có đường cong mềm mại như vẻ đẹp người phụ nữ, song trọng tâm đỉnh ngọn cây vẫn nằm trên gốc cây, biểu hiện sự đoan chính hiền thục.
3. Thế Ngũ Thường: Tổng cộng trên thân cây còn năm tán, tượng trưng cho năm đức (nhân, lễ, nghĩa, trí, tín) của đạo làm người.
4. Thế Mẫu Tử: từ gốc đâm ra hai thân, một lớn một nhỏ như mẹ bồng con.
5. Thế Bạt Phong Hồi Đầu: Thân cây bị ngả nằm ngang nhưng ngọn vẫn hướng về gốc, biểu hiện người tự lập tự cường, trước cơn bão đời vẫn hướng về nguồn cội và quê cha đất tổ.
6. Thế Quần Thụ Tam Sơn: Gồm ba cây, cây giữa cao hơn hai cây hai bên tạo hình chữ sơn , ý nói sự đoàn kết của nhiều người cùng chí hướng để cùng gánh vác đại sự.
7. Thế Hạc Lập: Biểu hiện tinh thần thanh cao như loài hạc. Thân cây cong như Mai Nữ, ít tán lá hơn, không nhất thiết đỉnh phải nằm trên gốc, nhưng mảnh khảnh như “tiên hạc” (chim hạc múa như tiên); chính bởi thế nên Nguyễn Du mới ví Thúy Kiều “nét buồn như cúc, điệu gầy như mai”
Trên đây chỉ giới thiệu một số thế kinh điển, không thể kể hết; mà muốn chọn cây mai đẹp thì phải thuộc câu truyền khẩu: “Nhất thân, nhì đế, tam tàn, tứ thế.” Nghĩa là khi đánh giá cây, đầu tiên phải xem thân cây có bị sâu mọt không…, và do cây càng già, thân càng bóng láng, hoa lại càng đẹp, nên người ta rất chuộng lão mai; sau mới xem đến phần bộ rễ có cân đẹp không, có bị sâu từ gốc không… vì “cây có cội, nước có nguồn”; rồi đến xem tán lá có bị nấm, bị rầy không…; cuối cùng mới xem thế của cây thì mới trọn vẹn và chính như Cao Bá Quát (1809-1855) nói:
Thí tương mai tử trịch sơn gian
Nhất ác thanh tư ký bích loan
Ký thử lai thì xuân sắc hảo
Dữ nhân cộng tác họa đồ khan.

施將梅籽擲山間
一握清姿寄碧巒
寄此來時春色好
與人共作畫圖看


Đặng Thế Kiệt dịch:
Thử đem một nắm rắc non xanh
Gởi tấm thanh cao hạt giống lành
Nhớ nhé mai này xuân nở thắm
Vì người quẫy bút vẽ nên tranh.
*
Mai vàng được vua Minh Mệnh ca tụng (trong Minh Mệnh Thánh Chế Thi Tập), được đúc vào Cửu Đỉnh,([10]) cũng như được chọn trang trí trong mỹ thuật triều Nguyễn([11]) ở cung điện, lăng tẩm… dù lấy điển tích Tứ Quý từ Trung Quốc, nhưng không dùng mai trắng của Trung Quốc mà dùng mai vàng Việt Nam để thay thế vì “phàm cỏ hoa có điều ngụ hứng, sản vật ấy đây đã có nhiều”. Bởi dù ở Á Đông có chịu ảnh hưởng chung của văn hóa Hán, nhưng khi đón nhận những cái hay của văn hóa Trung Quốc, người Việt đã lấy thêm cái riêng của mình, chỉnh lý cho phù hợp để trở thành bản sắc riêng của dân tộc. Chính thế, loại mai hương ở Huế này được vua chúa yêu thích và còn có thêm một tên nữa là “mai ngự”. Ở đây, chữ “ngự” là dành riêng cho vua dùng, tuy không phải là khái niệm quốc hoa như ngày nay, nhưng về mặt ý niệm thì tương đương; tức là rất có thể triều Nguyễn đã chọn mai vàng làm loài hoa riêng, quốc hoa của Việt Nam.([12])
Với một cốt cách như thế, Cao Bá Quát, một danh sĩ vô cùng cao ngạo, từng thẳng thừng chê hội thơ của vua Tự Đức là “Câu thơ thi xã” hôi (dở) như nước mắm trên“Con thuyền Nghệ An”, nhưng đối với hoa mai, cũng phải thốt lên: 
Thập tải luân giao cầu cổ kiếm,
Nhất sinh đê thủ bái mai hoa.
([13]) 交求 / 一 生 低 首 拜
(Mười năm bôn ba tìm kiếm cổ,
Một đời đầu cúi lạy hoa mai.)
     NGUYỄN ANH HUY




([1]) Thơ Kim Tuấn (1938-2003), nhạc Nguyễn Hiền (1927-2005).
([2]) Bài thơ Ước Khách 約客 của Triệu Sư Tú 趙師秀 (1156-1219) thời Tống (Trung Quốc):
Hoàng Mai thời tiết gia gia vũ / Thanh thảo trì đường xứ xứ oa / Hữu ước bất lai quá dạ bán / Nhàn xao kỳ tử lạc đăng hoa.
黃梅時節家家雨 / 青草池塘處處蛙 / 有約不來過夜半 / 閑敲棋子落燈花
Dựa vào hai chữ “Hoàng Mai” trong câu thơ đầu tiên, có người nhầm lẫn cho rằng Trung Quốc cũng có mai vàng. Thật ra, ở Trung Quốc, mưa trong tháng Tư, tháng Năm là thời tiết cho trái mơ chín ửng vàng nên còn gọi là tiết Hoàng Mai.
Theo Chân Lạp Phong Thổ Ký (Hà Văn Tấn dịch, Nxb Thế Giới, 2011, tr. 40), sứ giả Trung Quốc là Chu Đạt Quan năm 1296-1297 đến Chân Lạp (miền Nam Việt Nam ngày nay), viết ở mục “Cỏ Cây” như sau: “ Chỉ có thạch lựu, mía, hoa sen, ngó sen, dương đào, chuối khung là giống Trung Quốc... Ngoài ra đều là những giống Trung Quốc chưa hề thấy. Cây cỏ rất nhiều loại khác nhau... Còn như các loại đào, mận, mai ... đều không có”. Cây mai ở miền Nam Việt Nam mà Chu Đạt Quan ghi chép ở Trung Quốc không có chính là mai vàng.
([3]) Dương Văn An (Trần Đại Vinh, Hoàng Văn Phúc dịch), Ô Châu Cận Lục. Huế: Nxb Thuận Hóa 2001, tr. 38. Nói thêm: Lệ Sơn ở Quảng Bình (Việt Nam), Dữu Lĩnh ở Trung Quốc.
([4]) Rõ ràng cây mai vàng nằm trên đất người Champa, song họ chưa biết thưởng ngoạn, vì họ đã chọn quốc hoa là hoa champa mà người Việt gọi là hoa s.
([5]) Xuân Này Con Không Về, nhạc Trịnh Lâm Ngân.
([6]) Quốc Sử Quán triều Nguyễn (Phạm Trọng Điềm dịch), Đại Nam Nhất Thống Chí. Huế: Nxb Thuận Hóa 1992. Tập 1, tr. 281, 282.
([7]) Cây mai trong bài kệ của thiền sư Mãn Giác (1052-1096) chắc chắn là mai mơ, chúng tôi dẫn vào để thấy văn hóa thưởng ngoạn mai nói chúng tại Việt Nam đã có từ xa xưa. Nhưng sau khi người Việt phát hiện thú chơi mai vàng từ năm 1306 và Trần Nhân Tông (1258-1308) lập thiền phái Trúc Lâm ở Yên Tử (Quảng Ninh) thì người ta đã đưa mai vàng từ Thuận Hóa về trồng ở Yên Tử nên ngày nay đã tạo nên rừng mai vàng Yên Tử có độ tuổi khoảng bảy trăm năm. Một số nhà nghiên cứu cho rằng ngược lại mai vàng miền Nam xuất phát từ Yên Tử đưa vào Nam; điều này hoàn toàn không đúng với lý luận về sự phân bố mai vàng.
([8]) Câu đối khuyết danh. [Văn Uyển chú]
([9]) Ngoại trừ giọng miền Bắc. [Văn Uyển chú]
([10]) Hình hoa mai được đúc vào Nghị Đỉnh (Nghị nghĩa là kiên cường). Một số nhà nghiên cứu dựa vào chữ Hán (mai) trên Cửu Đỉnh cũng như trên đĩa trà Mai Hạc viết khác với chữ Hán (mai) trong câu đối của Cao Bá Quát để cho rằng mai trên Cửu Đỉnh là mai mơ (họ Rosaceae), chứ không phải là hoàng mai (họ Ochnaceae). Điều này là nhầm lẫn, vì theo Từ Nguyên thì hai chữ Hán viết khác nhau nói trên chỉ là một chữ nhưng có nhiều cách viết theo lối chữ cổ và chữ mới mà thôi. Xem thêm cách viết của Chu Đạt Quan chữ (mai) về cây mai vàng ở Chân Lạp trong chú thích (2) trên đây thì rõ.
Loài mai được chọn đúc ở Cửu Đỉnh chắc chắn phải là thổ sản của Việt Nam (xem thêm Đại Nam Nhất Thống Chí) còn được gọi là “mai ngự” tức là hoàng mai. Hơn nữa, trong tác phẩm “Les Bas-reliefs des Urnes Dysnastiques de Hue” (BSEI, No 3, 1974), R.P. Barnouin đã ghi chú hình mai trên Cửu Đỉnh là “Ochna integerrima”, tức là hoàng mai chứ không phải mai mơ. Còn đồ trà Giáp Tý niên chế do thi hào Nguyễn Du thay mặt nước Việt Nam làm năm 1804, lúc đó nước Việt Nam đã nhất thống từ ải Nam Quan đến tận Cà Mau, mà trước đó mấy thế kỷ thì mai vàng đã được dùng ở Đàng Trong (tiền thân của triều Nguyễn), nên mai trong đồ trà này là mai Huế, chứ không thể là mai Trung Quốc được.
([11]) Trong tác phẩm L’Art à Hué (BAVH, 1919), Cadière đã vẽ lại các hình thức trang trí mỹ thuật ở cung đình Huế có các loại hình hoa mai cách điệu, mai-điểu, mai hóa phụng… như ông cho biết: “Thường thường, sự biến đổi cây cỏ này đều bị quy theo ước lệ truyền thống: Cành hoa mai hoặc cành hoa đào biến thành chim phượng hoàng; cây tre và cây tùng thì biến thành con rồng…”
([12]) Điều này được biểu hiện qua chữ “mai” đã ăn sâu trong lòng Thế Tổ Nguyễn Phúc Ánh. Truyền thuyết kể rằng, trong hai mươi lăm năm bôn ba vận nước, khi bị quân Tây Sơn rượt đuổi, ngài trốn núp trên cây mù u và được cây mù u che chở. Sau khi thành công, ngài ban cho loài mù u một tên mới là “Nam mai” (Cây mai ở miền Nam), mặc dù mù u chẳng thuộc gì họ mai cả.
([13]) Viết luận nhưng đọc luân