Ảnh: Prenn (vi.wikipedia.org)
Nghêu ngao vui thú yên hà
Mai là bạn cũ, hạc là người quen.
Tương truyền đây là câu thơ chữ Nôm do sứ
thần Việt Nam Nguyễn Du (1766-1820) viết lên bộ đồ trà Mai Hạc làm năm Giáp Tý
(1804) lúc đi sứ sang Trung Quốc.
Đĩa Mai Hạc.
Vốn sinh trưởng trong một gia đình chơi
cổ ngoạn ở Huế, ngay từ nhỏ tôi đã ngắm nghía những cánh mai vàng lác đác trên
sập gụ cạnh những khay trà đĩa mứt... Nay nhân tình cờ nghe bài nhạc “Anh cho em mùa xuân / Nụ hoa vàng mới
nở...” ([1]) mà trong tôi lại bùng phát những ký ức xa
xưa... Đúng “Mai là bạn cũ”...
Nói về mai thì có hai loại.
Một loại mai có tên khoa học là Prunus mume, thuộc chi mận mơ (Prunus)
thuộc họ hoa hồng (Rosaceae), xuất phát từ Trung Quốc, lan qua Nhật Bản và miền Bắc Việt Nam, có hoa
màu trắng và trái (hay gọi là mơ) để làm ô mai; đây chính là loại hoa mà các
tao nhân mặc khách hay nhắc trong điển tích, văn thơ Trung Quốc ([2])
như: Đạp tuyết tầm mai, tuế hàn tam hữu, tứ quý (mai lan cúc trúc)…
Loài mai thứ hai có tên khoa học là Ochnaceae, như hoàng mai (hoa màu vàng). Trên
thế giới khoảng năm mươi loại mai vàng rải rác ở vùng
nhiệt đới và cận nhiệt đới, song tập trung chủ yếu ở Đông Nam Á và châu Phi. Ở Việt Nam, mai vàng dễ tìm thấy ở rừng Trường Sơn và là một loài cây cảnh phổ biến từ miền Trung
trở vào. Loài này cũng có
rất nhiều loại; ở đây, tôi chủ yếu đề cập đến loại mai vàng năm cánh mà người
ta hay gọi là mai Huế, mai ngự, mai hương…
Việc miền Bắc chơi
đào, miền Nam chơi mai đón tết,
được người ta truyền rằng sau khi
Nam tiến, mỗi lúc xuân về, những
người đi khai hoang nhớ
đến cành đào ngoài Bắc nhưng không thể có được, vì
miền Nam vốn có khí hậu nóng không thích hợp với việc
trồng đào, nên đã chọn cành mai để thay thế.
Cổ tích Việt Nam kể rằng ngày xưa có cô
bé rất yêu màu vàng và chơi thân với ông Táo. Cô thường dũng cảm giúp cha đi
giết ác thú để bảo vệ xóm làng. Trong một lần thay cha chiến đấu với quái vật,
cả hai đều chết. Ông Táo thương cô bé có lòng nhân ái, liền xin với Ngọc Hoàng
cho cô bé sống lại mỗi năm chín ngày từ chiều 29 tết để đoàn tụ với gia đình.
Sau khi cha mẹ cô qua đời, cô không trở về hạ giới nữa mà biến thành cây mai
vàng mọc trước đền người dân lập thờ nàng; và cũng như trước, mỗi năm mai vàng
nở hoa khoảng chín ngày chính là lúc cô về thăm làng xưa xóm cũ...
Truyền thuyết và sự tích hoa mai kể
trên, cho biết quá trình thưởng ngoạn mai vàng được hình thành trong quá trình
Nam tiến và khẩn hoang. Trong lịch sử dân tộc có những đợt Nam tiến và khẩn
hoang lớn: Đó là đợt tiếp nhận châu Ô và châu Lý để chuyển thành Thuận và Hóa
vào năm 1306, và đợt thứ hai là trấn thủ Thuận Hóa vào năm 1558 do Thái Tổ
Nguyễn Hoàng dẫn đầu. Nhưng theo Ô Châu
Cận Lục của Dương Văn An viết từ năm 1555 đã có ghi chép về cây mai vàng: “Mai ở Lệ Sơn cốt cách phong lưu như ở
Dữu Lĩnh. Trúc ở Lễ Sơn nào kém trúc ở Tiêu Tương… Hoa cúc khinh sương, vào thu
càng già cốt cách… Phàm cỏ hoa có điều ngụ hứng, sản vật ấy đây đã có nhiều.” ([3])
Điều này chứng tỏ trước đó rất lâu, việc thưởng ngoạn mai vàng là do người
Việt đã phát hiện được,([4])
và rất có thể việc chơi mai ngày tết ở đây là do quân lính trấn giữ biên cương
Đại Việt từ thời Trần (1306), khi mang tâm sự:
Con biết bây giờ mẹ chờ tin con / Khi thấy mai đào nở rộ bên hiên / Năm
trước con hẹn đầu xuân sẽ về / Nay én bay đầy trước ngõ, mà tin con vẫn xa ngàn
xa... ([5])
Từ lâu hoa mai đã đóng một vai trò quan
trọng trong văn hóa Á Đông, được mọi người chiêm ngưỡng, tượng trưng cho những
gì đẹp đẽ thanh tao. Mỗi khi mai nở rộ là dấu hiệu mùa xuân đang về làm lòng
người nao nao, rộn ràng. Ngày tết Nguyên Đán thiếu vắng hoa mai là một sự thiếu
sót rất lớn mà mọi người đều mặc nhiên công nhận. Và thú thưởng ngoạn mai vàng
có thể đã xuất hiện ở Huế hơn bảy trăm năm cùng lúc với sự ra đời của Thuận
Hóa...
Người xưa cho rằng có ba
hạng bạn hữu có ích là bạn ngay thẳng, bạn rộng lượng và bạn hiểu biết nhiều;
trên cơ sở đó đã mượn hoa để gởi gắm tâm tư và xếp mai, tùng, trúc thành ba
người bạn có ích, gọi là ngự sử mai, trượng phu tùng và quân tử trúc; khí tiết
của ba loài cây này biểu hiện cho cái đẹp chân thiện mỹ, chịu được sự khắc
nghiệt của phong ba giá rét, nên còn gọi là tuế
hàn tam hữu (ba người bạn mùa đông). Ngoài ra, mai còn được người xưa yêu
quý xếp vào tứ quân tử là:
- Mai: Trong khi những loài hoa khác chưa nở ngay từ tiết Lập Xuân
giá lạnh, mai là loài hoa nở đầu tiên (chiếm “bảng xuân”), nên được xưng tụng
là bách hoa khôi (nở dẫn đầu trăm
hoa), tượng trưng cho cốt cách thanh nhã của người quân tử; cho nên Nguyễn Trãi
“ưa mày vì tiết sạch
hơn người” và cho rằng: Huống lại bảng xuân xưa chiếm được / So tam hữu chẳng bằng mày.
- Lan:
Còn gọi là vương giả chi hoa (hoa
vương giả) khi nở giữa đám cỏ dại mùa hè; bởi thế lan tượng trưng cho người
quân tử bất đắc chí.
- Cúc:
Còn có tên là tiết hoa, không chịu nở
cùng với các loài hoa khác, chỉ nở vào tiết thu lạnh lẽo; do sự biệt lập đó mà
tượng trưng cho tiết tháo của kẻ sĩ, không a dua siểm nịnh.
- Trúc:
Tiết trực tâm hư (bề ngoài thẳng thắn
nhưng trong lòng rỗng, vô tư) là một loài nửa thảo nửa mộc, không cương không
nhu... tượng trưng cho bậc chính nhân quân tử.
Riêng về mai vàng
ở Huế, tên tiếng Anh là Vietnamese mickey-mouse plant, tên khoa
học là Ochna integerrima, thuộc họ Ochnaceae.
Đại Nam Nhất Thống Chí, phần Loại Hoa (thổ sản) ở kinh sư (Huế) viết: “Hoa
bạch mai: Cây và lá giống cây mận, hoa trắng mà thơm… Hoa hoàng mai: Tục gọi là
bông mai vàng. Bản Thảo [Cương Mục] chép là lạp mai. Kính xét: Bài thơ “Vịnh Hoàng
Mai” trong Minh Mệnh Thánh Chế có lược chú rằng thân cây cứng và thẳng, lá xanh
lợt mà sáng mịn, nhọn dài, hoa có năm cánh, nhị như ngọc, lòng hoàng đàn, cũng
giống mai trắng, nhưng sắc vàng thẫm và thơm hơn; khi hoa rụng thì cuống khô,
biến thành sắc hồng, lại giống như hoa, khác hẳn các loại hoa khác. Mai vàng ở Sa Sơn đạo Quảng Trị có
nhiều…” ([6])
Ở
đoạn sử liệu này có một vấn đề cần bàn. Có thể đây là loại mai hoa trắng cùng
họ với mai vàng, chứ không phải loài mai (mơ) của Trung Quốc; nhưng người Việt
kiêng cữ màu trắng nở ngày tết, do đó ít ai trồng. Song sự mô tả ở dòng sử liệu
khá rõ là “Hoa bạch
mai: cây và lá giống cây mận”,
tức sự ghi chép ở đây nghiêng về loài mai (mơ) hơn. Chúng ta hoàn toàn biết
rõ ở Huế không hề có mai trắng (mận mơ), nhưng sử ghi về “Loại Hoa” đã chép về
“bạch mai”, trong khi ở miền Bắc Việt Nam thì trồng đầy loại mai mơ này, nhưng
phần “Thổ Sản” ở đây không hề ghi chép gì về chúng. Điều này chứng tỏ Quốc Sử Quán
triều Nguyễn đã biết chọn lọc rõ, mai mơ (hoa trắng) xuất xứ từ Trung Quốc, nên
không thể đưa vào thổ sản Việt Nam mà chỉ nêu ra cây mai trắng mục đích để so
sánh với mai vàng Việt Nam; vì như ta thấy khi viết về “hoa hoàng mai”, các sử
gia đã nói: “… cũng giống mai trắng,
nhưng sắc vàng thẫm và thơm hơn!”
Chắc
hẳn các bạn còn nhớ hương thơm của mai khi tỏa ra đã cho lộc may đầu năm? Và ở Việt Nam
có loài mai vàng năm cánh hương thơm lại đậm hơn những loài mai khác nên được
gọi là “mai hương”. Tao nhân mặc khách thưởng ngoạn hoa mai, không chỉ nhìn sắc màu vàng rực,
mà là sự bâng khuâng nơi hương ngầm của hoa: Không thắm đượm như hoa hồng,
không nồng ngát như dạ lan, không âm thầm như hoa ngâu… Hương mai rất nhẹ
nhàng, thanh cao rất khó thưởng thức. Phải người tinh nhạy lắm mới cảm thấy vì
là một thứ “ám hương”, nếu tâm tình con người vọng động thì khó mà cảm nhận
được. Đặc
biệt khi tiết trời càng lạnh, khiến cho mai càng tỏa hương thơm nên còn gọi là
“lãnh hương”, và chính điều đó làm cho ta yêu quý mai vàng hơn. Thử đọc bài “Mai Hương” của Hoàng
Mai Phi:
Mai
cành búp nở chào xuân,
Hương vàng nắng tỏa từng cân trên ngàn.
Mai em có nhớ tiếng đàn,
Hương thơm đừng chất phũ phàng theo mưa.
Mai về anh nhớ năm xưa,
Hương thầm quyện lối so vừa bước chân.
Mai còn lắng đọng ngoài sân,
Hương thơm lơ lửng chào xuân hoa vàng.
Mai đây em có ngỡ ngàng,
Hương thơm đọng lại bóng chàng yêu thơ.
Mai em còn nhớ hay mơ,
Hương ơi! Hãy nhớ vần thơ anh làm.
Mai kia vẫn nở rộn ràng,
Hương êm vẫn khép nép vàng dễ thương.
Mai hoa còn khép mùi hương,
Hương thơm đọng lại liễu nhường hoa mai.
Không những đã gây rung cảm
tạo văn hóa thưởng ngoạn, kể cả giới tu hành như:
Mạc vị xuân tàn hoa lạc
tận,
莫謂春殘花落盡 / 庭前昨夜一枝梅
(Ðừng bảo xuân tàn hoa
rụng hết,
Đêm qua sân trước một nhành mai.)
cũng không những là nguồn cảm hứng gây tức
cảnh sinh tình:
Nhất thụ mai hoa, nhất
thụ ngọc,
一樹梅花一樹玉 / 半床明月半床詩
(Một gốc hoa mai, một khối ngọc,
Nửa giường trăng chiếu, nửa giường thơ.)
mà
hoa mai còn là niềm ao ước của các cao nhân: Đào Tấn
(1845-1907), khi lên đỉnh Mai Phong tìm đất thọ, đứng trên mỏm đá lặng yên cười:
Mai sơn tha nhật tàn mai cốt,
Ứng
hữu mai hoa tác mộng hồn.
梅山他日藏梅骨 / 應有梅花作夢魂
(Núi mai rồi gửi xương mai
đấy,
Ước mộng hồn ta hóa đóa mai.)
Do mai vàng là hóa thân của
người khai canh bảo vệ xóm làng, nên thường được trồng ở sân đình chùa miếu
mạo, và trong tâm thức người Việt, đây là một loài hoa chưng
tết chủ đạo, ai cũng mong nụ mai nở ngay vào đêm giao
thừa rồi kéo dài suốt những ngày xuân cùng những lá non nẩy lộc tươi mát mới;
lại thêm chữ “mai” đồng âm với chữ “may (mắn)” ([9]) cho nên cây mai được xem như là linh vật cát tường mang lại điềm thịnh vượng,
phát lộc, phát tài, hạnh phúc, sung túc cho gia đình hay đoàn thể khởi sự một
chu kỳ mới. Ngược lại, người ta rất kiêng
cữ nếu cành mai không nở hoặc héo rũ đúng ngày mồng một tết. Từ
đó sinh ra tục “bói mai” để đoán hậu
vận khi xem cây mai nở hoa như thế nào.
Về triết lý nhân sinh, là
hóa thân từ cô gái nên mai thường biểu hiện cái nét duyên dáng, đoan trang,
hiền hậu của người phụ nữ (mai nữ), nhưng cô gái ấy rất dũng cảm, có chí nam
nhi nên cũng lại biểu hiện cho đấng quân tử. Vì xuất thân từ núi rừng nên còn
được gọi là “mai núi”, và
do phải chen tìm đất sống với những cây khác ở địa thế khắc nghiệt trong cuộc
sinh tồn nên dáng cây có vẻ đẹp đặc biệt, hoa lại có nhiều cánh rực rỡ...
Nguyễn Du đã dùng mấy chữ “Mai cốt cách,
tuyết tinh thần”, ngụ ý nói bất cứ hoàn cảnh nào mai cũng là “người” có
tiết tháo, cho nên trồng ở loại đất gì cũng sống. Với hàm ý như vậy, mai được trồng rộng rãi trong vườn nhà, làm cây cảnh trong chậu (bonsai). Tuy nhiên để có được hoa
mai nở như ý và khoe sắc suốt những ngày đầu xuân, và có cây mai đẹp là điều
không phải dễ dàng...
Mai vàng cũng còn được gọi
là lạp mai, vì lạp nguyệt 臘月 là
tháng Chạp, lúc đó, người chơi mai vàng bắt đầu chuẩn bị dồn sức để cuối tháng
thì cây mai ra hoa... Mai chuộng ánh sáng và đất ẩm, người ta thường canh ngắt
lá đúng ngày để dồn nhựa cho các nhánh ra hoa vào đúng dịp tết. Ngắt lá là một
nghệ thuật vì nếu lá ngắt đi không đúng lúc sẽ ảnh hưởng đến ngày hoa nở.
Ngoại trừ trồng mai thẳng tự
nhiên trước nhà, ta không bàn; riêng về mai bonsai thì có thể nói đây là một
tác phẩm nghệ thuật điêu khắc mà chất liệu là thân cây, cành, tán lá, hoa, gốc
và rễ cùng với môi trường (đất, chậu). Người xưa bảo “Vô nữ bất thành mai, vô thập bất thành tùng” hay nói gọn là “Mai nữ, tùng tử”, nghĩa là thân mai
phải có những nét cong thanh tú như người phụ nữ thì mới đẹp, còn cây tùng thì
phải cứng cáp sần sùi như người đàn ông thì đẹp… Và người ta thường tạo dáng
theo chủ đề tư tưởng:
1. Thế Trực: Thân cây thẳng đứng, đôi khi người ta còn gọi là thế Tùng lập, Nhất trụ kình thiên… biểu
hiện sự chính trực của người quân tử.
2. Thế Mai Nữ: Thân cây có đường cong mềm mại như vẻ đẹp người phụ nữ,
song trọng tâm đỉnh ngọn cây vẫn nằm trên gốc cây, biểu hiện sự đoan chính hiền
thục.
3. Thế Ngũ Thường: Tổng cộng trên thân cây còn năm tán, tượng trưng cho năm
đức (nhân, lễ, nghĩa, trí, tín) của
đạo làm người.
4. Thế Mẫu Tử: từ gốc đâm ra hai thân, một lớn một nhỏ như mẹ bồng con.
5. Thế Bạt Phong Hồi Đầu: Thân cây bị ngả nằm ngang nhưng ngọn vẫn hướng
về gốc, biểu hiện người tự lập tự cường, trước cơn bão đời vẫn hướng về nguồn
cội và quê cha đất tổ.
6. Thế Quần Thụ Tam Sơn: Gồm ba cây, cây giữa cao hơn hai cây hai bên tạo hình
chữ sơn 山, ý nói sự đoàn kết của
nhiều người cùng chí hướng để cùng gánh vác đại sự.
7. Thế Hạc Lập: Biểu hiện tinh thần thanh cao như loài hạc. Thân cây cong
như Mai Nữ, ít tán lá hơn, không nhất thiết đỉnh phải nằm trên gốc, nhưng mảnh
khảnh như “tiên hạc” (chim hạc múa như tiên); chính bởi thế nên Nguyễn Du mới
ví Thúy Kiều “nét buồn như cúc, điệu gầy
như mai”…
Trên đây chỉ giới thiệu một
số thế kinh điển, không thể kể hết; mà muốn chọn cây mai đẹp thì phải thuộc câu
truyền khẩu: “Nhất thân, nhì đế, tam tàn,
tứ thế.” Nghĩa là khi đánh giá cây, đầu tiên phải xem thân cây có bị sâu
mọt không…, và do cây càng già, thân càng bóng láng, hoa lại càng đẹp, nên
người ta rất chuộng lão mai; sau mới xem đến phần bộ rễ có cân đẹp không, có bị
sâu từ gốc không… vì “cây có cội, nước có
nguồn”; rồi đến xem tán lá có bị nấm, bị rầy không…; cuối cùng mới xem thế
của cây thì mới trọn vẹn và chính như Cao Bá Quát (1809-1855) nói:
Thí
tương mai tử trịch sơn gian
Nhất ác thanh tư ký bích loan
Ký thử lai thì xuân sắc hảo
Dữ nhân cộng tác họa đồ khan.
施將梅籽擲山間
一握清姿寄碧巒
寄此來時春色好
與人共作畫圖看
Đặng Thế Kiệt dịch:
Thử đem một nắm rắc non xanh
Gởi tấm thanh cao hạt giống lành
Nhớ nhé mai này xuân nở thắm
Vì người quẫy bút vẽ nên tranh.
Gởi tấm thanh cao hạt giống lành
Nhớ nhé mai này xuân nở thắm
Vì người quẫy bút vẽ nên tranh.
*
Mai vàng được vua Minh Mệnh
ca tụng (trong Minh Mệnh Thánh Chế Thi
Tập), được đúc vào Cửu Đỉnh,([10]) cũng như được chọn
trang trí trong mỹ thuật triều Nguyễn([11]) ở cung điện, lăng
tẩm… dù lấy điển tích Tứ Quý từ Trung Quốc, nhưng không dùng mai trắng của
Trung Quốc mà dùng mai vàng Việt Nam để thay thế vì “phàm cỏ hoa có điều ngụ hứng,
sản vật ấy đây đã có nhiều”. Bởi dù ở Á Đông có chịu ảnh hưởng chung
của văn hóa Hán, nhưng khi đón nhận những cái hay của văn hóa Trung Quốc, người
Việt đã lấy thêm cái riêng của mình, chỉnh lý cho phù hợp để trở thành bản sắc
riêng của dân tộc. Chính thế, loại mai hương ở Huế này được vua chúa yêu thích
và còn có thêm một tên nữa là “mai ngự”. Ở
đây, chữ “ngự” là dành riêng cho vua dùng, tuy không phải là khái niệm quốc hoa
như ngày nay, nhưng về mặt ý niệm thì tương đương; tức là rất có thể triều
Nguyễn đã chọn mai vàng làm loài hoa riêng, quốc hoa của Việt Nam.([12])
Với một cốt cách như
thế, Cao Bá Quát, một danh sĩ vô cùng cao ngạo, từng thẳng
thừng chê hội thơ của vua Tự Đức là “Câu
thơ thi xã” hôi (dở) như nước mắm
trên“Con thuyền Nghệ An”, nhưng đối
với hoa mai, cũng phải thốt lên:
Thập tải luân giao cầu cổ kiếm,
Nhất
sinh đê thủ bái mai hoa.
(Mười năm bôn ba tìm kiếm cổ,
Một đời đầu cúi lạy hoa mai.)
NGUYỄN ANH HUY
Hoàng Mai thời tiết gia gia vũ / Thanh thảo trì đường xứ xứ oa / Hữu ước bất lai quá dạ bán / Nhàn xao kỳ tử lạc đăng hoa.
黃梅時節家家雨 / 青草池塘處處蛙 / 有約不來過夜半 / 閑敲棋子落燈花
Dựa vào hai chữ “Hoàng Mai” trong câu thơ đầu tiên, có
người nhầm lẫn cho
rằng Trung Quốc cũng có mai vàng. Thật ra, ở Trung Quốc, mưa trong tháng Tư,
tháng Năm là thời tiết cho trái mơ chín ửng vàng nên còn gọi là tiết Hoàng Mai.
Theo Chân Lạp Phong Thổ Ký (Hà Văn Tấn dịch,
Nxb Thế Giới, 2011, tr. 40), sứ
giả Trung Quốc là Chu Đạt Quan năm 1296-1297 đến Chân Lạp
(miền Nam Việt Nam ngày nay), viết ở mục “Cỏ Cây” như sau: “ Chỉ có thạch lựu, mía, hoa
sen, ngó sen, dương đào, chuối khung là giống Trung Quốc... Ngoài ra đều là
những giống Trung Quốc chưa hề thấy. Cây cỏ rất nhiều loại khác nhau... Còn như
các loại đào, mận, mai 梅 ... đều không có”. Cây mai ở miền Nam Việt
Nam mà Chu Đạt Quan ghi chép ở Trung Quốc không có chính là mai vàng.
([7]) Cây mai trong bài kệ của
thiền sư Mãn Giác (1052-1096) chắc chắn là mai mơ, chúng tôi dẫn vào để thấy văn hóa thưởng
ngoạn mai nói chúng tại Việt Nam đã có từ xa xưa. Nhưng sau khi người Việt phát
hiện thú chơi mai vàng từ năm 1306 và Trần Nhân Tông (1258-1308) lập thiền phái
Trúc Lâm ở Yên Tử (Quảng Ninh) thì người ta đã đưa mai vàng từ Thuận Hóa về
trồng ở Yên Tử nên ngày nay đã tạo nên rừng mai vàng Yên Tử có độ tuổi khoảng
bảy trăm năm. Một số nhà nghiên cứu cho rằng ngược lại mai vàng miền Nam xuất
phát từ Yên Tử đưa vào Nam; điều này hoàn toàn không đúng với lý luận về sự
phân bố mai vàng.
([10]) Hình hoa mai được đúc vào
Nghị Đỉnh (Nghị 毅 nghĩa là kiên cường). Một
số nhà nghiên cứu dựa vào chữ Hán 梅 (mai) trên Cửu Đỉnh cũng như trên đĩa trà Mai Hạc viết khác với chữ Hán 槑 (mai) trong câu đối của Cao Bá Quát để cho rằng mai trên
Cửu Đỉnh là mai mơ (họ Rosaceae), chứ không phải là hoàng mai (họ Ochnaceae). Điều này là nhầm lẫn, vì
theo Từ Nguyên thì hai chữ Hán viết
khác nhau nói trên chỉ là một chữ nhưng có nhiều cách viết theo lối chữ cổ và
chữ mới mà thôi. Xem thêm cách viết của Chu Đạt Quan chữ 梅 (mai) về cây mai vàng ở Chân
Lạp trong chú thích (2) trên đây thì rõ.
Loài mai được chọn
đúc ở Cửu Đỉnh chắc chắn phải là thổ sản của Việt Nam (xem thêm Đại Nam Nhất Thống Chí) còn được gọi là
“mai ngự” tức là hoàng mai. Hơn nữa, trong tác phẩm “Les Bas-reliefs des Urnes Dysnastiques de Hue” (BSEI, No 3, 1974),
R.P. Barnouin đã ghi chú hình mai trên Cửu Đỉnh là “Ochna integerrima”, tức là hoàng mai chứ không phải mai mơ. Còn
đồ trà Giáp Tý niên chế do thi hào Nguyễn Du thay mặt nước Việt Nam làm năm
1804, lúc đó nước Việt Nam đã nhất thống từ ải Nam Quan đến tận Cà Mau, mà
trước đó mấy thế kỷ thì mai vàng đã được dùng ở Đàng Trong (tiền thân của triều
Nguyễn), nên mai trong đồ trà này là mai Huế, chứ không thể là mai Trung Quốc
được.
([11]) Trong tác phẩm L’Art à Hué (BAVH, 1919), Cadière đã vẽ
lại các hình thức trang trí mỹ thuật ở cung đình Huế có các loại hình hoa mai
cách điệu, mai-điểu, mai hóa phụng… như ông cho biết: “Thường thường, sự biến đổi cây cỏ này đều bị quy theo ước lệ truyền
thống: Cành hoa mai hoặc cành hoa đào biến thành chim phượng hoàng; cây tre và
cây tùng thì biến thành con rồng…”
([12]) Điều này được biểu hiện qua
chữ “mai” đã ăn sâu trong lòng
Thế Tổ Nguyễn Phúc Ánh. Truyền thuyết kể rằng, trong hai mươi lăm năm bôn ba vận nước, khi bị quân
Tây Sơn rượt đuổi, ngài trốn núp trên cây mù u và được cây mù u che chở. Sau
khi thành công, ngài ban cho loài mù u một tên mới là “Nam mai” (Cây mai ở miền Nam), mặc dù mù u chẳng thuộc gì họ mai
cả.