So với Tết xưa, Tết nay đã khác đi nhiều. Bao nhiêu phong vị Tết (dẫu
toàn thứ không ăn được, thậm chí cũng chẳng nhìn thấy) đã một đi không trở lại.
Những cái không ăn được, chỉ cảm thấy được ấy ta vẫn quen gọi là không khí Tết.
Ví như “không khí” từ cái bếp tranh xưa nồng nàn khói lam và ấm áp sắc màu, mùi
vị Tết…
Cổ nhân triết lý “Dân dĩ thực vi thiên” (Dân lấy ăn làm trọng).* Đã gọi là nhà, dẫu sống độc thân hay
nghèo hèn đến mấy không nhà ai không có cái bếp. Nhưng bếp không đơn giản chỉ
là nơi nấu nướng cái ăn. Dù nhỏ bé, đơn sơ, có khi tồi tàn, dột nát, gió lùa,
chuột chạy chân vách, bếp vẫn sớm chiều tỏa khói nuôi dưỡng sự sống, gắn bó
cùng người.
Từ khi trên vách đá, vòm hang lạnh giá đêm đông lay động hình ảnh bầy
người nguyên thủy quây quần bên đống lửa cũng là lúc người khôn ngoan trở thành
khổng lồ, thoát cảnh tối tăm, chế ngự và sai khiến muôn loài. Trải qua hàng vạn
năm, con người vĩ đại đã biến đống lửa trở thành bếp lửa, rồi từ bếp lửa trở thành
cái (nhà) bếp - nơi trú ngụ của một vị thần thiêng trứ danh: Thần
Lửa. Ban đầu, bếp với nhà (nơi ở, ngủ) là một. Đến nay vẫn còn nhiều cư dân
không làm nhà bếp riêng (Mường, Thái, Khơ Mú, Mông, Dao…). Do nhu cầu sưởi ấm,
tránh và xua đuổi thú dữ, bếp của họ nằm ngay trên nhà sàn định cư hoặc trong
căn lều du canh, du mục.
Trước khi người Việt tách riêng bếp với nhà, họ cũng từng đặt bếp lửa
ngay trong nhà sàn. Thói quen quây quần bên bếp lửa, ăn uống, trò chuyện hay
ngủ dưới nhà bếp; chuồng gia súc làm liền với bếp phản ánh nếp sinh hoạt từng
gắn bó với người Việt hàng ngàn năm trước. Bếp của người Việt mang đặc trưng cư
dân trồng lúa nước: mái lợp bằng rạ, vách bếp làm bằng bùn ao ngào với rơm khô.
Ngọc Hoàng Thượng Đế quả tinh tường khi giao việc theo dõi, báo cáo
chuyện làm ăn trong năm của gia chủ cho Ông Bếp. Tuy chỉ một gian, hai chái,
nhưng bếp đảm nhận rất nhiều vai trò. Không hoạt động nào của người mà không
qua căn bếp. Bếp là kho trữ lương thực, thực phẩm (bồ lúa, vại cà, mắm, muối
ăn), bảo quản hạt giống lúa ngô (gác giàn bếp), để cối xay, cất dao rựa, liềm
hái, gàu, cuốc xẻng, cày bừa, bu gà, lồng gà, củi đun, thùng trấu (gác, dựng
vách bếp, hiên, chái bếp…). Bếp là trung tâm để các công trình khác xoay quanh:
giếng nước, cây rơm, vườn rau (tiện sử dụng), chuồng gà, ổ gà, chuồng lợn (tiện
chăm sóc, bảo vệ)… Một ngày sinh hoạt của con người thời gian ở bếp nhiều nhất.
Sáng mở mắt, còn tối đất đã “mò” xuống bếp thăm bu gà con, cửa chuồng gà, chuột
bọ, nồi niêu thế nào. Sự sống của một ngày nhen lên theo ngọn lửa ấm áp. Nấu
cám cho lợn gà, ấm nước, nồi cơm, khoai luộc cho người. Ra đồng, lên rẫy, non
trưa trở về lại vào bếp. Chiều về, chưa kịp lên nhà đã “chui” vào bếp. Tất cả
quây quần trong không gian bếp chuẩn bị bữa chiều. Liền vách bếp đơn sơ, tiếng
gà rúc rích, cúc quác chọi nhau giành chỗ đậu, lợn réo đòi ăn, chó, mèo chầu
chực sưởi ấm bên chủ... Mâm cơm đạm bạc, nhưng ấm cúng thường ngày được dọn
ngay bên bếp lửa. Rôm rả chuyện cày bừa, đồng áng, thủ thỉ chuyện xưa, chuyện
nay, thì thào chuyện ma quỷ, chuyện người cho đến khi chìm vào giấc ngủ… Có khi
ngay ổ rơm bên bếp lửa!
Trở lại với cái bếp tranh ngày Tết. Trong suốt thời gian ròng rã mười hai
tháng vận cùng bốn mùa xuân hạ thu đông, bếp chính là chặng nghỉ chân cuối cùng
của cái Tết. Nó như chân lý không thể khác để ông thầy bói có cơ sở nói dựa: Số cô chẳng giàu thì nghèo / Ngày ba mươi
Tết thịt treo trong nhà. “Nhà” đây chính là nhà bếp, căn bếp mà ta đang nhớ
về nó. Quanh năm bếp cùng người gắn bó sớm hôm. Nhà nghèo khó thì Ông Bếp cũng
cơ hàn. Mùa giáp hạt đứt bữa, bếp lạnh tanh. Ông Núc, Ông Kiềng buồn thiu khi
không thể cùng gia chủ sáng, chiều lên khói. Nghèo hèn Tết thường đến muộn… Bên
kia, bếp hàng xóm đã đỏ đèn, đỏ lửa, tưng bừng cơm chiều ba mươi. Bên này, Táo
Quân trở về sau chuyến “công cán” Thượng Giới từ lâu mà vẫn còn ngơ ngác bên lũ
trẻ mỏi mắt mong chờ cha mẹ chạy Tết ở phương nào. Có khi phải đến ngày cùng
tháng tận, thậm chí thời khắc cuối cùng của năm, cái Tết mới lận đận theo chân
gia chủ vội vàng chạy vào căn bếp tranh. Lửa nhóm lên, mùi Tết thơm lừng, tiếng
Tết xèo xèo, sùng sục vui thay, ánh mắt Tết lấp lánh bên bếp lửa hồng. Ông Bếp
mừng mừng tủi tủi cùng hưởng niềm vui kịp đón Tết, dù đơn sơ, đạm bạc như số
phận bần hàn của gia chủ.
Tết xưa không thể thiếu cảnh quây quần bên nồi bánh chưng. Hai tám, hai
chín, bếp và gia chủ đã được thưởng thức phong vị Tết qua mùi thơm của nồi bánh
sôi lục sục, chộn rộn thanh âm của thời khắc giao thừa… Bên bếp hồng rì rầm
chuyện Tết, chuyện xóm làng. Đêm khuya thiu thiu mơ thấy xuân về trước ngõ, rồi
bừng tỉnh tiếng gà eo óc báo xuân sang… Tết sẽ chẳng trở thành Tết nếu “bước
chân” của nó không đi qua cái bếp. Không gian bếp chính là nơi hiển hiện sinh
động, cụ thể nhất hình bóng cái Tết, trước khi “nó” hóa thân thành khói hương
nghi ngút nơi bàn thờ gia tiên cùng mâm cỗ bâng khuâng chiều ba mươi.
Bây giờ, bếp tranh đã nhường bếp ngói, gọn gàng, sạch đẹp hơn, nhưng cũng
kém đi phần phong phú, thi vị. Không còn cảnh khói lam chiều ba mươi vấn vít
trên mái tranh ẩm ướt mưa bụi. Bếp không còn là không gian quây quần mỗi lúc
lên đèn. Người ta tập trung cả bên chiếc ti-vi. Nấu nướng chỉ đơn thuần là công
việc. Ở thị thành, cái bếp vốn đã tẻ nhạt ngày thường, xuân về cũng chẳng thấy
mấy xúc cảm. Ông Núc, Ông Kiềng đi đâu hết, thay vào là bếp ga, bếp từ... Cái
Tết dửng dưng, lẳng lặng từ chợ tuột thẳng vào nhà. Nào bánh chưng, thịt đông,
giò, chả… thứ mua, thứ đặt. Ông Bếp chẳng được hưởng niềm vui nghi ngút nấu
nướng, ngạt ngào phong vị Tết sớm. Táo nhà ai đó đã tranh mất cái quyền và
nghĩa vụ thiêng liêng của Ông ba ngày Tết!
Cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Bánh
chưng, giò chả xuất hiện ngay cả ngày thường, chẳng phải đợi xuân về mới được
cảm giác “dửng dưng như bánh chưng ngày Tết”. Đón Tết bây giờ lại bâng khuâng
nhớ Tết năm xưa, muốn tìm lại “không khí” Tết trong căn bếp. Thực tế gần đây đã
không ít gia đình ở thị thành đang trở lại với nồi bánh chưng tự nấu để được
cảm thấy, nghe thấy, nhìn thấy cái Tết cổ truyền dân tộc rộn ràng chen bước
cùng mùa xuân đến với muôn nhà.
Nhớ bếp tranh xưa xin góp chút phong vị Tết cho xuân sớm thêm phần ý vị.
HOÀNG TUẤN CÔNG
Thanh Hóa