Minh Tân Cao Tiên Đàn
(Ảnh: http://thanhthatcaodai.org)
Ngày 19-9 Bính Thân (19-10-2016), như lệ hằng
năm, Ban Cai Quản và bổn đạo Minh Tân Cao Tiên Đàn ([1]) trân trọng thiết lễ kỷ
niệm bốn mươi tám năm ngày thành lập thánh thất Minh Tân Cao Tiên Đàn, đồng thời
cũng là lễ tưởng niệm công đức của Đức Quan Âm Bồ Tát, Nhị Trấn Oai Nghiêm
trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Từ rất lâu đời, ở nước ta, hàng năm đồng bào theo đạo Phật, đạo
Hòa Hảo, đạo Cao Đài cũng như đông đảo cộng đồng Phật tử trên thế giới đều
thành kính thiết lễ kỷ niệm Đức Bồ Tát Quan Âm (hay Quán Thế Âm) vào ba ngày
như sau:
- 19 tháng 02 âm lịch,
tương truyền là ngày Đức Quan Âm đản sanh.
- 19 tháng 6 âm lịch,
tương truyền là ngày Đức Quan Âm thành đạo.
- 19 tháng 9 âm lịch,
tương truyền là ngày Đức Quan Âm xuất gia.
Dân gian vẫn thường gọi chung ba ngày này là ngày vía Đức
Quan Âm Bồ Tát. Thật ra, chữ vía là
tiếng Việt cổ có nghĩa là ngày sinh. Do
đó, chỉ có ngày 19 tháng 02 âm lịch kỷ niệm Đức Quan Âm đản sanh mới nên gọi là
ngày vía của Ngài.
Tuy nhiên, dù cho có gọi thế nào đi nữa thì mỗi ngày lễ tưởng
niệm Đức Bồ Tát đều là một dịp cho người dân khắp nơi trong nước Nam hân hoan,
thành kính thiết lễ trang trọng hiến dâng Ngài. Mỗi ngày lễ còn là dịp để tín hữu,
đạo đồ hiệp tâm cầu nguyện cho quốc thái dân an, và noi gương từ bi cứu khổ ban
vui của Đức Bồ Tát để cùng nhau tổ chức làm từ thiện giúp đỡ đồng bào bất hạnh.
Một năm có đến ba ngày lễ tưởng niệm Đức Bồ Tát Quan Âm, cho
thấy rằng dân gian sùng bái kính ngưỡng Ngài hết mực. Sự linh ứng mầu nhiệm và
cứu độ huyền diệu của Đức Bồ Tát đã khiến cho hình tượng Quan Âm đi sâu vào
lòng nhân thế, bàng bạc khắp mọi nơi trong đời sống văn hóa của người dân Việt,
từ ca dao, thi thơ đến tác phẩm văn học, nghệ thuật sân khấu, âm nhạc, hội họa,
điêu khắc… Ca dao Việt Nam từ xa xưa có câu:
Ao nào cũng có ánh trăng
Nhà nào cũng có Quan Âm hiện hình.
Thật vậy, trong đời sống
tâm linh người Việt, không chỉ vào chùa mới gặp hình ảnh hay tượng thờ Đức Quan
Âm. Từ thành thị đến thôn quê hầu như đâu đâu cũng thấy tôn tượng của Ngài. Nhiều
gia đình người Việt, dù không theo một tín ngưỡng tôn giáo nào nhưng trong nhà
vẫn thờ kính Đức Bồ Tát Quan Âm -
biểu tượng của lòng từ bi trắc ẩn cứu khổ cứu nạn chúng sinh. Rất nhiều xe
khách, xe du lịch trưng hình hay tượng nhỏ Quan Âm ở sau mặt kính phía trước để
cầu xin Ngài phù hộ chuyến xe bình an trên mọi tuyến đường ngắn dài xuôi ngược.
Đối với một đất nước như
Việt Nam, với lịch sử có quá nhiều chiến tranh dai dẳng và khốc liệt, phần lớn
dân chúng là nông dân và người lao động nghèo khổ, thì Đức Quan Âm Bồ Tát luôn luôn
là vị cứu tinh mầu nhiệm, linh ứng cảm thương, xoa dịu nỗi đau, che chở tai
nàn… Thế nên, trong lòng nhân gian, Đức Quan Âm không chỉ là Bồ Tát mà Ngài còn
là hình tượng của một Mẹ Hiền có tình yêu thương vô bờ bến và lòng khoan dung
vô lượng. Do đó, dân gian còn gọi Ngài là “Mẹ Quan Âm”.
Thế rồi từ hình tượng Đức Quan Âm là Mẹ Hiền, dân gian Việt
Nam lại đồng hóa bà mẹ phàm trần đã mang nặng đẻ đau, cho mình bú mớm là Phật
Bà Quan Âm. Do đó, để khuyên dạy phận làm con hãy giữ gìn đạo hiếu và biết lo
báo hiếu cho cha mẹ vào ngày rằm tháng Bảy (lễ Vu Lan, xá tội vong nhân), ca
dao Việt Nam
có bốn câu như sau:
Cha già là Phật Thích Ca
Mẹ già như thể Phật Bà
Quan Âm
Nhớ ngày xá tội vong nhân
Lên chùa lễ Phật, đền ơn
sinh thành.
Dân gian vẫn luôn hết lòng tin tưởng vào sự cứu khổ cứu nạn của
Đức Quan Âm Bồ Tát, tin rằng Ngài có cả ngàn
con mắt để nhìn thấu suốt hết chúng sanh đang lâm vào cảnh khổ đau, và có cả
ngàn cánh tay để chìa ra cứu vớt
chúng sanh thoát khỏi đau khổ. Đức tin mãnh liệt và rất lâu đời đó kết tụ thành
những pho tượng uy nghi Quan Âm thiên thủ
thiên nhãn (Quan Âm ngàn mắt ngàn tay), tượng trưng cho quyền phép cứu giúp
vô tận, vô biên, vô hạn của Ngài.
Trong văn học dân gian Việt Nam có truyện thơ lục bát nhan đề Quan Âm Nam Hải. Truyện kể về một công
chúa hiền từ nhân hậu muốn xuất gia tu hành nhưng lại gặp phải biết bao ngăn trở
của vua cha là người rất khắc nghiệt. Với ý chí kiên định, cuối cùng công chúa
tu hành đắc quả thành Phật Bà ngàn tay ngàn mắt và cứu độ cả song thân:
Tinh thông nghìn mắt nghìn tay
Cũng trong một điểm Linh
Đài hóa ra
Xem trong bể nước Nam ta
Phổ Môn có Đức Phật Bà
Quan Âm
Niệm Ngài thì niệm tại
tâm…
Theo đạo học, Linh Đài tức là cái Tâm chúng ta. Còn Phổ Môn tức
là phẩm (hay chương) Phổ Môn trong Diệu Pháp
Liên Hoa Kinh (gọi tắt là Kinh Pháp Hoa), trong đó Đức Phật Thích Ca thuyết
giảng về oai lực và quyền năng linh ứng nhiệm mầu của Đức Quan Âm Bồi Tát.
Ngoài ra, người Việt còn có truyện thơ lục bát Quan Âm Thị Kính với nhân vật nữ là nàng
Thị Kính từng chịu nhiều nỗi oan khuất trong cuộc đời nhưng với hạnh hy sinh, nhẫn
nhục và từ bi, bà vẫn bền chí nhẫn nhịn tu hành và đắc đạo thành Phật Quan Âm:
Chữ rằng nhẫn nhục nhiệm
hòa
Nhẫn điều khó nhẫn mới là
chân tu.
Hạnh nguyện từ bi cứu khổ cứu nạn chúng sinh của Đức Quan Âm
Bồ Tát cũng đã được nhắc đến trong truyện thơ lục bát Lục Vân Tiên nổi tiếng của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888), tức
Đồ Chiểu.
Trong truyện có đoạn kể Kiều Nguyệt Nga bị triều đình bắt đi
cống Hồ, dọc đường nàng đã tìm cách nhảy xuống biển trầm mình cho tròn tiết
nghĩa với Lục Vân Tiên. Ngọn sóng thần đẩy xác nàng dạt vào bờ. Phật Bà Quan Âm
thương xót đem hồn nàng nhập lại xác rồi hóa phép đưa nàng đến vườn hoa nhà họ
Bùi. Đức Quan Âm còn báo mộng để dặn dò Nguyệt Nga hãy ẩn nhẫn chờ đợi ngày tái
ngộ Lục Vân Tiên. Cụ Đồ Chiểu tả đoạn này như sau:
Nguyệt Nga nhảy xuống giữa
vời
Sóng thần đưa đẩy vào nơi
bãi rày
Bóng trăng vừa khuất ngọn
cây
Nguyệt Nga hồn hãy chơi
rày âm cung
Xiết bao sương tuyết đêm
đông
Mình nằm giữa bãi lạnh
lùng ai hay
Quan Âm thương đấng thảo
ngay
Bèn đem nàng lại bỏ rày
vườn hoa
Dặn rằng nàng hỡi Nguyệt
Nga
Tìm nơi nương náu cho qua
tháng ngày.
Đôi ba năm nữa gần đây
Vợ chồng sau cũng sum vầy
một nơi.
Nguyệt Nga náu nương nhà họ Bùi thì bị Bùi Kiệm giở trò ép
duyên. Thế nên nàng phải lẻn trốn ra đi trong đêm tối tăm mờ mịt. Một lần nữa
Phật Bà Quan Âm lại cứu nàng trong lúc thân gái dặm trường bằng cách báo mộng
cho một bà lão tốt bụng, chỉ đường cho bà lão đi đón nàng và đưa về nhà bà lão
trú ngụ. Cụ Đồ Chiểu tả đoạn này như sau:
Nguyệt Nga đi đặng hồi
lâu
Tìm nơi bàn thạch ngõ hầu
nghỉ chưn
Người ngay Trời Phật cũng
vưng
Lão bà chống gậy trong rừng
bước ra
Hỏi rằng nàng phải Nguyệt
Nga
Khá tua gắng gượng về nhà
cùng ta
Khi khuya nằm thấy Phật
Bà
Người đà mách bảo nên già
tới đây
Nguyệt Nga bán tín bán
nghi
Đành liều nhắm mắt theo
đi về nhà.
Lòng kính ngưỡng của dân gian đối với Đức Bồ Tát còn được thể
hiện qua âm nhạc. Mấy năm gần đây chúng ta thường được nghe bài hát Lạy Phật Quan Âm của nhạc sĩ Hàn Châu với
ca từ bày tỏ sự tôn kính và tri ân Đấng cứu khổ cứu nạn chúng sinh:
Dưới tòa sen vàng, con quỳ
lạy Bồ Tát Quan Âm. Người đã cho con niềm tin yêu giữa cuộc đời. Quan Âm Bồ Tát
hiệu Viên Thông, mười hai nguyện lớn rộng mênh mông, cứu giúp bao người qua cơn
khổ nạn từ bi độ đời. Quan Âm, trái tim sáng ngời cứu người hoạn nạn qua cơn
khó khăn. Quan Âm, tay cầm bình nước cam lồ, tay cầm nhành liễu thanh nhàn rưới
khắp thế gian tốt tươi mát mẻ mười phương thanh nhàn.
Chúng ta đã thấy hình tượng Quan Âm trong
tín ngưỡng thờ phượng, trong ca dao, trong văn chương truyền khẩu dân gian,
trong tác phẩm văn học, trong âm nhạc, trong hội họa điêu khắc… Nhưng nhiều nhất,
phong phú nhất vẫn là những truyền thuyết về sự linh ứng và oai lực cứu khổ cứu
nạn của Đức Bồ Tát đã được ghi chép thành nhiều quyển sách dày mỏng khác nhau
mà nếu liệt kê cho đủ các nhan đề sẽ là một danh sách thật dài. Các quyển sách ấy
được lưu hành rộng rãi trong dân gian, kể lại vô số tích truyện về sự linh ứng
cứu khổ cứu nạn của Đức Bồ Tát Quan Âm, như giải trừ bệnh khổ, cứu độ tai ách hoạn
nạn, ban bố phước huệ, giải thoát sanh tử, vừa khuyên răn vừa ứng hiện khắp nơi
để dẫn dắt nhơn sanh hồi tâm hướng thiện. Truyện kể thì vô cùng phong phú, đa dạng
nhưng tựu trung đều cho thấy một lý duy nhứt đó là sự cứu khổ cứu nạn của Đức
Quan Âm Bồ Tát luôn được đặt trên cơ sở chánh tín và không bao giờ vượt ra khỏi
luật công bình của Tạo Hóa.
Ngày nay, hàng môn đệ Cao Đài rất hữu duyên
hữu phước được tiếp nhận những dòng thánh giáo của Đức Thường Cư Nam Hải Quan
Âm Như Lai, Nhị Trấn Oai Nghiêm của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Đức Bồ Tát luôn dạy
người tín hữu Cao Đài phải tu hành trong tinh thần chánh tín.
Nhờ học đạo chúng ta hiểu rằng con người sở
dĩ gặp những nạn nọ tai kia, bệnh tật rủi ro… là do đã gây tạo biết bao lỗi lầm
ác nghiệp trong quá khứ nên phải chịu trả nghiệp theo luật nhân quả. Thế nên ăn chay là để giải trừ nghiệp sát; trì niệm danh hiệu Đức Bồ Tát là để tâm
được an định thanh tịnh, dừng lại mọi tính toan ham muốn xui khiến con người
gây tạo tội lỗi; tụng kinh là để nhắc
mình nhớ thực hành theo lời kinh dạy, sống đúng đạo lý, lập thêm công bồi thêm
đức. Làm được ba điều ấy thì tự nhiên phước huệ đến với mình, mọi tai họa đều
lánh xa.
Đức Quan Âm Bồ Tát dạy:
Tu phải
cố trau giồi tâm tính
Phải trước tiên quyết
định tu chi
Tụng kinh là để làm gì
Ăn chay niệm Phật ích
chi cho mình?
Không phải
Phật thiếu kinh thường dụng
Bảo chúng sanh đem tụng
Phật nghe
Tụng kinh như thể nói vè
Nghĩa sâu không biết,
lối lề không thông.
Chẳng
khác nào nghe ong vò vẽ
Tiếng nhỏ to thỏ thẻ vu
vu
Tụng nhiều mới gọi là tu
Đọc nhiều cho Phật công
phu mới nhiều.
Đó là tu theo chiều mê tín
Biết bao giờ tâm thánh mở mang
Sách kinh là đuốc rọi đàng
Dạy đời học đạo hành tàng thể nao.
Vì lẽ đó cùng nhau ráng hiểu
Đọc kinh coi Phật biểu làm chi
Ráng làm ăn ở cho y
Tánh tình cùng những hành vi Phật Trời.
Đọc kinh rồi hiểu lời Phật dạy
Thì chớ làm trái lại sách kinh
Nếu khi mình đã thông minh
Lảu thông đạo pháp, xem kinh làm gì?
Ăn chay để làm chi vậy hử
Tập ăn chay để khử lòng trần
Bao nhiêu ái, ố, tham, sân
Bao nhiêu thói xấu rửa lần cho thanh.
Ăn chay để tập tành nhân dõng
Loài vật kia cũng sống như mình
Lẽ nào đành đoạn sát sinh
Rượu ngon thịt béo tiệc tùng sớm trưa.
Đó là lối muối dưa tụng niệm
Lòng thương nhân hậu làm nền
Giọi đèn minh triết cho bền quang minh.
(...)
Cúng lạy để nghỉ ngơi tâm trí
Để tịnh lòng, tịnh ý, tịnh ngôn
Khép mình dưới bệ Chí Tôn
Trau giồi tính nết luyện hồn tịnh thanh.
Cúng lạy để tâm lành phát hiện
Nhìn Phật Tiên trên điện hiền hòa
Khởi lòng bác ái vị tha
Nhìn chung Thượng Đế là Cha linh hồn.
(...)
Tu phải hiểu đức tin chánh tín
Mỗi việc hành xét định minh quang
Hôm nay, huynh tỷ đệ muội chúng ta thiết lễ tưởng niệm và tri
ân công đức vô lượng của Đấng Đại Từ Đại Bi Tầm Thinh Cứu Khổ Cứu Nạn Chúng
Sinh, đại lễ trân trọng nhất kính dâng lên Ngài có lẽ không gì quý báu hơn là
tình yêu thương mà chúng ta mang đến cho nhơn sanh đau khổ bằng tất cả sự cảm
thông chân thành, khoan dung tha thứ nhẫn nhịn, đùm bọc nâng đỡ sẻ chia, để mỗi
người trong chúng ta đều sẽ là một hiện thân của Đức Bồ Tát Quán Thế Âm giữa cuộc
đời đầy đau khổ này.
DIỆU NGUYÊN
Minh Tân Cao Tiên Đàn
19-10-2016