GIÓ BỐN PHƯƠNG
Gió muốn thổi đâu thì thổi.
GIOAN 3:8
1. Hiền
tỷ caythuocnam@...... Điện thư ngày 20-10-2019:
Trong một đàn cơ tại
Thiên Lý Đàn, Tuất thời, 01-4 Ất Tỵ (01-5-1965), Đức Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Từ
Tôn dạy như sau:
“Mẹ tiếc vì chưa thấy
ai là hiện thân của Võ Vương, nghe lời lành liền cúi lạy. Vì vậy mà chưa
gặp được minh quân. Chưa thấy ai kiên tâm dưng dép ba lần,
vì thế chưa gặp hàng lương tể. Chưa thấy ai phục thiện
hạ sĩ bất văn bái thần đồng, vì thế chưa gặp Thánh Nhơn xuất thế độ
đời.” (trích THÁNH GIÁO SƯU TẬP, NĂM
ẤT TỴ ─1965, của Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo, Nxb Tôn Giáo, Hà Nội 2018,
tr. 106.)
Xin kính nhờ Đạo Uyển vui lòng cho biết: (1) “Võ Vương” ở đây là Chu Võ Vương hay Hạ Võ? (2) “kiên tâm dưng dép ba lần” phải chăng là tích
Trương Lương? (3) “lương tể” nghĩa là gì? (4) “phục thiện hạ sĩ bất
văn bái thần đồng” ý nghĩa ra sao
ạ? Tệ muội rất cảm ơn Ban Ấn Tống.
Huệ Khải: Thưa hiền tỷ, xin
lần lượt trả lời như sau:
(1) Khi dạy “Võ [Vũ] Vương, nghe lời lành liền cúi lạy”, là Đức Mẹ nhắc tới câu “Võ [Vũ] văn thiện ngôn tắc bái” 禹聞善 言則拜 (Võ [Vũ] nghe lời tốt
lành liền vái lạy), chép trong sách Mạnh
Tử 孟子, thiên Công Tôn Sửu,
thượng 公孫丑上.
Khi nói “Võ [Vũ] văn thiện
ngôn tắc bái”, có lẽ Đức Mạnh Tử
đã căn cứ vào câu “Võ [Vũ] bái xương
ngôn” 禹拜昌言 (Vua Vũ nghe lời nói hay thì kính tạ) chép trong
kinh Thượng Thư 尚書, thiên Đại Vũ Mô 大禹謨. Trong câu này, xương ngôn 昌言 là lời nói hay,
lời nói thẳng, không kiêng kỵ (sợ mích lòng người nghe).
Trong sách Mạnh Tử và kinh Thượng Thư đã dẫn, chữ Võ (hay
Vũ) đều viết là 禹. Vậy, đây là vua Võ (Vũ) 禹 nhà Hạ 夏, nên còn gọi là Hạ Võ (Vũ), cũng gọi Đại Vũ 大禹, là vị vua huyền thoại ở Trung Quốc thời cổ đại. Ông Vũ
là người đạo đức, nổi tiếng với việc làm thủy lợi chống lũ, nên dù là dân thường
mà lại được vua Thuấn truyền ngôi. Có lẽ nhờ sự nghiệp làm thủy lợi (chống lũ lụt)
nên vua Võ (Vũ) được đạo Lão tôn là Thủy Quan Đại Đế 水官大帝.
Nhân vật Chu Võ Vương 周武王 hiền tỷ nhắc tới tên là Cơ Phát 姬發 (1110-1043 trước Công
Nguyên [TCN]), ra đời sau vua Hạ Vũ cả ngàn năm.
Lưu ý: Theo âm Hán-Việt, tên hai vị đều đọc là Võ (Vũ) nên khó phân biệt, nhưng chữ Nho
thì viết khác nhau: 禹 và 武.
(2) Hiền tỷ đoán đúng rồi, “dưng dép ba lần” chính là tích Trương Lương. Chữ Nho gọi tích “Trương Lương
dưng (dâng) dép” là Trương Lương tiến lý 張良進履. Mà dép (hay hài) này là của ngài Hoàng Thạch Công cố ý đánh rơi, nên tiếng Anh
gọi tích này là “Zhang Liang
returning a shoe to Huang Shigong” (Trương Lương trả
lại cho Hoàng Thạch Công một chiếc dép).
Trương Lương 張良 tự Tử Phòng
子房 (?-188 TCN) là quý tộc nước
Hàn. Sau khi Hàn bị Tần Thủy Hoàng tiêu diệt (230 TCN), Trương Lương mượn tay
dũng sĩ ám sát vua Tần. Việc thất bại, Trương trốn sang thành Hạ Bì 下邳 (nay thuộc tỉnh Giang Tô 江蘇). Một hôm Trương ra sông Nghi 沂, ngồi chơi trên cầu Di 圯, thì gặp ông lão (là ông tiên
Hoàng Thạch Công 黄石公) đi qua. Ông lão ba lần cố ý làm rớt dép, hách dịch sai Trương xuống dưới
cầu nhặt lên, xỏ giúp vào chân. Cả ba lần Trương đều nhẫn nhịn người già cả,
làm y theo lời sai khiến. Ông lão dặn năm ngày nữa gặp lại sẽ tặng Trương vật
báu. Trương y hẹn trở lại thì ông lão đã tới sớm hơn. Ông làm mặt giận, quở
trách và hẹn thêm năm ngày nữa. Lần thứ hai dù đã ráng tới thật sớm mà Trương
vẫn trễ hơn, ông lão hẹn thêm năm ngày nữa. Lần thứ ba nhờ thức suốt đêm ở chỗ
hẹn để khỏi tới trễ nên Trương vượt qua được bài thi (cốt thử thách lòng nhẫn
nại, đức khiêm tốn), được tiên ông trao cho Thái
Công Binh Pháp 太公兵法 của Khương Tử Nha. Nhờ đó Trương rèn luyện thành tài,
làm quân sư trợ giúp Lưu Bang diệt Tần và thắng Sở Bá Vương Hạng Vũ trong chiến
tranh Hán Sở. Thù nhà nợ nước trả xong, từ khước chức quan do Lưu Bang phong
thưởng, Trương đi tu Tiên, học đạo với ngài Hoàng Thạch Công. Do đó, đàn cơ tại
Trung Hưng Bửu Tòa, ngày 27-02-1959, Đức Phục Ma Đại Đế (Quan Thánh Đế Quân)
dạy: “. . . danh lợi như Trương Lương mà
còn buông phế việc đời cầu truyền chánh pháp, an vui ngày tháng với cảnh trí
đất trời.”
(3) Theo Baidu,
tức là Bách Độ Bách Khoa 百度百科, thì lương tể 良宰 có nghĩa: Hữu
năng lực đạo đức cao đích quan viên. 有能力道德高的官員. (Vị quan có tài năng, rất đạo đức.) Theo giải thích
này, có thể dịch lương tể sang tiếng
Anh là “a mandarin of
high talent and virtue”.
(4) Câu thánh ngôn “Chưa thấy ai phục thiện hạ sĩ bất văn bái thần đồng” rõ ràng là (a) thiếu dấu chấm câu, (b) viết sai chữ, và
(c) đặt chữ sai thứ tự nên chúng ta không hiểu được lời Đức Mẹ dạy. Lỗi này ắt
hẳn do người sao chép thánh giáo nhầm lẫn mà ra, khiến cho sách in sai. Ta nên
hiểu như sau:
(a) Phục thiện 服善 là nghe theo điều lành, điều phải (following
what is right). Câu thánh giáo dẫn trên lẽ ra phải phẩy (thêm dấu phết)
ngay sau hai chữ phục thiện, vì tới
đó là đã nói xong một ý nhỏ trong câu.
(b1) Chữ sĩ (dấu
ngã) phải sửa là sỉ (dấu hỏi), có
nghĩa mắc cỡ, xấu hổ, thẹn (ashamed).
Chữ Nho viết sỉ là 恥, gồm chữ tâm 心 (mind, heart) bên phải, và chữ
nhĩ 耳 (cái tai / ear)
bên trái; ngụ ý rằng khi thẹn quá, lắm người đỏ cả hai bên tai. Tiếng Anh cũng
nói giống như vậy: blushing to ears.
(b2) Chữ văn lẽ
ra phải viết là vấn 問 (hỏi
han / asking, making a question).
(c) Bốn chữ hạ sĩ bất
văn vì thế phải sửa lỗi chánh tả (như nói ở b1, b2) và đảo thứ tự thành bất sỉ hạ vấn 不恥下問, nghĩa là không thấy mắc cỡ
mà hỏi kẻ dưới (kẻ nhỏ tuổi hơn mình, thân phận kém hơn mình...): Feeling unashamed to ask an inferior.
Cũng nên thêm dấu phẩy sau bốn chữ bất sỉ
hạ vấn, vì tới đó đã nói xong một ý nhỏ thứ hai trong câu.
(d) Bái thần đồng 拜神童 là vái chào, bái phục trẻ nhỏ quá giỏi (paying
respect to a child prodigy). Thần đồng ở đây là Hạng Thác 項橐 (bảy tuổi). Theo sách xưa truyền lại, Đức Khổng Tử dọc đường gặp Hạng Thác
đối đáp quá xuất sắc nên chắp tay xá, kính trọng như là thầy mình.
Trong kinh Đại Thừa
Chơn Giáo, đàn ngày 11-8 Bính Tý (1936), bài Luyện Kỷ Tu Thân, Đức Cao Đài Giáo Chủ nhắc lại sự tích này như
sau:
“Các con nên hiểu rằng lúc KHỔNG TỬ dạy về Nhơn Đạo
thời chưa thông Thiên Đạo, còn dùng tửu nhục. Đến ngộ Đạo cùng HẠNG THÁC thì
trì trai thủ giới, nên mới có câu: Thiên sanh Khổng Tử chơn kỳ trí. Tánh mạng
công phu thỉ bất minh. Vãng Trần lộ ngộ Hạng Thác vi sư. Lão tác đồ ti thiếu vi
tôn.” (bản
in 36-2 của Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo, Hà Nội: Nxb Tôn
Giáo, 2016, tr. 133)
Câu chữ Nho mà Thầy
dạy viết như sau: 天生孔子真奇智. 性命功夫始不明. 往陳路遇項橐為師. 老 作徒卑少為尊.
Nghĩa là:
Trời sanh Khổng Tử có trí tuệ thực sự phi phàm. Thuở đầu Ngài chưa hiểu rõ về
công phu tu tánh luyện mạng. Trên đường qua nước Trần, Ngài gặp Hạng Thác và
bái làm thầy. Người lớn tuổi xem đứa trẻ thấp hèn là tôn quý.
Hạng Thác là thần đồng
bảy tuổi, hỏi nhiều câu khiến Đức Khổng Tử (Trọng Ni) không trả lời được. Sách Tam Tự Kinh 三字經 có câu: “Tích Trọng Ni sư Hạng Thác.” 昔仲尼, 師項橐. (Ngày
xưa Trọng Ni [tức Khổng Tử] xem Hạng Thác là thầy.)
(e) Tóm lại, câu thánh giáo in sai trong sách đã dẫn, nên sửa như sau: Chưa thấy ai phục thiện, bất sỉ hạ vấn, bái
thần đồng, vì thế chưa gặp Thánh Nhơn xuất thế độ đời.
Chúc hiền tỷ luôn thân tâm thường lạc, đạo học tăng huy.
*
2. Hiền
muội Châu Thị Kim Tươi (Quầy Kinh
Sách Cao Đài, Tam Kỳ, Quảng Nam). Tin nhắn ngày 03-11-2019:
Kính thưa đạo huynh. Tuần
vừa rồi quầy kinh sách Cao Đài tại Quảng Nam có nhận được 1.000.000 (một triệu)
đồng của đạo hữu Nguyễn Thanh Vũ, công ty TNHH MTV Cao Su Bình Thuận công quả
cho quầy. Tuy nhiên, hiện tại quầy chưa có nhu cầu dùng số tiền lớn này, nên
huynh Tạo nhờ muội chuyển công quả của đạo hữu Thanh Vũ về Chương Trình Chung
Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo. Muội kính báo để
đạo huynh được biết ạ. Kính chúc đạo huynh sức khỏe.
Ban Ấn Tống: Hiền muội Kim Tươi quý
mến, Ban Ấn Tống cảm ơn tấm lòng quý hóa của hiền hữu Trần Thanh Tạo và Châu hiền
muội. Chúng tôi đã ghi nhận công quả của ân nhân Nguyễn Thanh Vũ vào đợt 153,
tháng 11-2019. Cầu nguyện Thầy Mẹ, Đức Lý Giáo Tông, Đức Trần Tổng Lý, và Liệt
Thánh Tông Đồ hộ trì cho tất cả thành viên phụ trách Quầy Kinh Sách của Ban Đại
Diện Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài tại tỉnh Quảng Nam. Cũng cầu mong sao các tỉnh
thành khác cũng có được quầy kinh sách như ở Tam Kỳ vậy.
*
3. Hiền huynh Nguyễn Văn Bé (khu phố 1, thị trấn Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh).
Điện thoại ngày 19-11-2019:
Tôi thường xuyên nhận được
các sách biếu của Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo, đã chia sẻ
với đồng đạo ở Tây Ninh, mọi người rất thích vì bổ ích. Tuy nhiên, có một số bạn
đạo thắc mắc rằng trước đây gọi là ĐẠI ĐẠO VĂN UYỂN, nay gọi tắt là ĐẠO UYỂN, vậy
thì ý nghĩa của Văn Uyển và Đạo Uyển là gì? Các bạn đạo nhờ tôi thay mặt hỏi
giùm. Xin cảm ơn Ban Ấn Tống.
Ban Ấn Tống: Hiền huynh kính mến.
Xin cảm ơn hiền huynh lâu nay đã khó nhọc giúp phổ biến kinh sách của Chương
Trình Chung Tay Ấn Tống tới tay quý đồng đạo ở Tây Ninh. Hiển nhiên hiền huynh
đã góp phần vào công quả pháp thí rồi vậy. Về câu hỏi của quý đạo hữu, xin thưa
như sau:
UYỂN 苑 là khu vườn. Ngự uyển 御苑 (hay thượng
uyển 上苑) là vườn trong
cung vua. Kinh Phật có nói tới Lộc Uyển
鹿苑 (vườn nai: Sarnath), là nơi Đức Phật giảng đạo trước
tiên sau khi đắc đạo được năm tuần.
Vậy thì Văn Uyển
文苑 là vườn văn, nơi
“gieo trồng” các sáng tác
thơ văn. Đại Đạo Văn Uyển là vườn văn
của Đại Đạo, là nơi thơ văn đạo lý không phân biệt tôn giáo, tín ngưỡng được
gieo trồng, tỉa tót để mang hương thơm chánh pháp, vị ngọt đạo đức cống hiến
cho mọi người thưởng thức.
Đạo Uyển là cách nói tắt Đại Đạo Văn Uyển, cũng có nghĩa là mảnh
vườn nhà Đạo, nơi các bạn đạo chung tay góp phần xây dựng và phổ truyền văn hóa
đạo đức, nương theo lời dạy của Đức Giáo Tông Đại Đạo Thái Bạch Kim Tinh:
Văn hóa là sản phẩm tinh
thần của xã hội dân tộc. Văn hóa có ảnh hưởng một phần rất to tát trong xã hội
nhơn loại. Nó tế nhị mà bao la, trầm lặng mà mạnh mẽ, có thể đưa dân tộc từ chỗ
đồi trụy trở về cuộc sống thanh cao. Bản chất của văn hóa là đạo đức. Hình thức
của nó là ngôn từ, chương cú, giáo dục. (Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt
Nam, Thứ Năm 21-8-1975)
*
4. Lễ Sanh Dinh Du Nguyen (tambinh1951@------). Điện thư ngày 24-11-2019.
Tôi, Lễ Sanh Du Nguyen,
được xem thấy trên mục GIÓ BỐN PHƯƠNG của ĐẠO UYỂN ĐÔNG 2019 có đăng bài trả lời
Du Nguyen về lời gởi gắm mong nhờ của tôi là: “Xin Ban Biên Tập Đạo Uyển dịch các bài Kinh Cúng Tứ Thời
và các bài Kinh Cầu An, Kinh Cầu Phước Thiện, Kinh Mai, Kinh Hôm... mà Hội
Thánh Truyền Giáo Cao Đài đang lưu hành để con cái tôi bên Hoa Kỳ đọc tụng, nhằm
làm cho bạn bè chúng nó hiểu thông được sâu sắc các áo nghĩa trong mỗi bài
kinh, mà kinh thường tụng có nhiều từ khó biết.”
Tuy chưa được đáp ứng
ngay, nhưng với tinh thần hoan hỷ tiếp nhận, chư đạo huynh, đạo tỷ trong Ban
Biên Tập đã kịp thời hồi âm; lòng tôi cảm thấy rất hoan hỷ, đầy tin tưởng tinh
thần phụng sự của chư liệt vị.
Một lần nữa tôi thành tâm
gởi đến chư vị lời cảm ơn và xin chung lòng cầu nguyện Thầy Mẹ, các Đấng, và Liệt
Thánh Tông Đồ Trung Bảo ban phước đến chư huynh tỷ và bửu quyến, và cho Chương
Trình Chung Tay ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo ngày càng vươn rộng, vươn xa, đáp ứng
được lòng mong đợi của toàn thể tín chúng. Kính thư.
Ban Ấn Tống: Hiền huynh Lễ Sanh kính
mến. Chúng đệ muội cảm ơn hiền huynh luôn quan tâm tìm đọc các kinh sách do Chương
Trình Chung Tay Ấn Tống liên kết xuất bản và phổ biến. Lòng yêu mến sách, ham
thích đọc sách của hiền huynh quả thật là một niềm an ủi và khích lệ cho Ban Ấn
Tống thêm bền bỉ với gánh gồng chữ nghĩa đã chọn bấy lâu.
Trả lời thư bạn đọc gần xa là bổn phận và lòng cảm kích của
chúng đệ muội, vì lẽ bạn đọc đã không ngại tốn công và thời gian viết thư gởi
Ban Ấn Tống, thể hiện lòng thương mến và tin cậy của bạn đọc qua từng dòng chữ.
Cho nên chúng đệ muội luôn trân trọng và phải kịp thời hồi âm.
Xin hiền huynh tiếp sức, giới thiệu, phổ biến kinh sách ấn
tống trong đạo chúng, để cùng nhau phổ thông giáo lý Kỳ Ba.
Cầu nguyện Thầy Mẹ, Liệt Thánh Tông Đồ ban ơn lành phước
huệ đến hiền huynh và bửu quyến.
*
5. Hiền huynh Sử Kiến Nguyên (tín hữu Cao Đài Tây Ninh). Điện thư ngày
27-11-2019:
Chào Đạo Uyển.
Không biết là tôi có thể gửi bài viết cộng tác không?
Ban Ấn Tống: Kính thưa hiền huynh, hiền
huynh cứ gởi bài. Đường lối của Đạo Uyển là:
(a) Mở rộng tới mọi người. Không phân biệt Cao Đài này
hay Cao Đài khác; không vì Cao Đài này mà xem các Cao Đài khác là “phái”, là “bàng môn tả đạo” [sic]. Không xới lên chuyện “chi phái” của dĩ vãng để đồng đạo
cứ mãi kỳ thị lẫn nhau. Không đề cao cá nhân ai.
(b) Bản thảo có trích thánh ngôn, thánh giáo, v.v... xin
ghi rõ xuất xứ, nguồn gốc trích dẫn cụ thể.
(c) Ban Ấn Tống xin được biên tập bản thảo và sẽ hoàn lại
tác giả. Nếu tác giả xác nhận ĐỒNG Ý thì mới đưa vào bản thảo cả tập Đạo Uyển
và sau đó sẽ xin giấy phép xuất bản theo quy chế hiện hành. Sách in từng quý
(tam cá nguyệt) nên tác giả sẽ thấy bài mình in sách chậm.
(d) Khi xuất bản chánh thức, còn phải tôn trọng ý kiến của
nhà xuất bản. Nếu nhà xuất bản có đề nghị gì, Ban Ấn Tống sẽ liên lạc ngay với
tác giả để được sự đồng thuận.
Nói chung, làm sách thì cực lắm, rất nhiêu khê, thưa hiền
huynh. Cảm ơn hiền huynh quan tâm và có nhã ý cộng tác. Kính chúc hiển huynh an
lạc.
*
6. Hiền
hữu Phạm Trung Quốc (Long An). Tin
nhắn ngày 28-11-2019:
Trong một thánh giáo có
câu: “Các con phải cố gắng
thúc liễm thân tâm và siêng năng hành chánh pháp.” Vậy, hai chữ thúc liễm
nghĩa là gì? Cảm ơn Ban Ấn Tống.
Huệ Khải: Thưa hiền hữu, THÚC 束 là buộc lại (binding), nghĩa
rộng là không cho buông thả. LIỄM 斂 là kềm chế (restraining, controlling oneself). Có thể xem hai động từ này đồng
nghĩa. THÚC LIỄM THÂN TÂM (restraining
one’s body and mind) là giữ gìn cho thân và tâm không buông thả, phóng túng
theo những ham muốn trần tục, trái với nếp sống đạo đức của người tu hành, nhất
là tu tịnh. Thí dụ, nghiêm cẩn giữ gìn giới luật là thúc liễm cái thân, không
cho nó gây tạo nghiệp thân (không có hành vi sái quấy); không nghĩ ngợi viển
vông, không tư tưởng bất chánh là thúc liễm cái tâm cái ý, không cho nó tạo gây
nghiệp ý. Hành giả trong lúc công phu ráng kềm chế tâm viên ý mã cũng là thúc
liễm cái tâm.
*