Thứ Hai, 9 tháng 3, 2020

LUẬN CHỮ DANH / Đạo Uyển Hạ 2020 (tập 34)


Thánh giáo
LUẬN CHỮ DANH
Chí Thiện Đàn (Khổng Thánh Miếu, Minh Đức Nho Giáo
Đại Đạo, Trà Vinh) ngày 10-10 Quý Sửu (Chủ Nhật 4-11-1973). Pháp đàn: Minh Dần. Đồng tử: Chơn An.
THI
NAM bắc TRẦN ai dắt kẻ phàm
PHƯƠNG châm THẾ sự để quy tam ([1])
THỔ minh ĐỘ tận người nguyên vị ([2])
ĐỊA giáng cơ Tiên dắt chỉ đàng.
TRẦN THẾ ĐỘ ([3]) lai cơ chào chư môn đồ. Hãy nghiêm trang tiếp Đức Nam Cực Tiên Ông.
TIẾP ĐIỂN
THI
NAM bắc chuyển càn khôn thế giới
CỰC lòng Tiên nên mới lâm phàm
TIÊN đợi chờ Đại Đạo quy tam
ÔNG độ tận Nho đàn chiếu lịnh.
Chiếu lịnh Kỳ Tam ([4]) dắt kẻ trần
Khuyên người tài đức chớ phân vân
Kỳ cùng mạt hạ ([5]) Thiên cơ chuyển
Dắt kẻ nguyên căn ([6]) lướt khỏi trần.
Trần ai, ai tỉnh lại ai mê
Hỡi khách hùng anh lướt dặm đề ([7])
Trở lại nhàn quê ([8]) an lạc thú
Tài bồi đức đủ cội tùng xuê ([9])
Xê xang ú líu cống tình tang ([10])
Hỡi khách nguyên căn nhớ cảnh nhàn
Chớ tưởng lợi danh, là ảo ảnh ([11])
Rồi đây phải chịu lụy đa mang.([12])
Mang chi khối thịt, xác thân nầy
Thúc giục lòng mình tình phải gây
Lục tặc ([13]) nó đưa người quỷ ám
Thất tình ([14]) uốn nắn đọa càng gây.
Gây chi thế sự lắm nhiều lần
Nợ trả muôn đời dưới tục trần
Chỉ có trở về nơi động phủ ([15])
Yêng hùng đức đủ mới tài lành.([16])
Lành thay! Nguyên vị biết hồi nguyên ([17])
Tế thế ([18]) độ dân đến cửa thiền ([19])
Tỉnh lại, hỡi nầy bao khách tục
Nhớ rằng tế phước cõi trần duyên.
Nghe Bần Đạo phân bày. Hỡi nầy khách tài yêng hùng, khi xưa Bần Đạo cũng mang xác thân tứ đại ([20]) như chư hiền, nhưng biết cõi đời là tạm bợ, nên xuống trần để giúp đời chớ không nghĩ gì về tài danh, lợi lộc. Sao cho nhơn loài hạnh phúc là ta vui. Sao cho đồng bào an lành là ta hạnh phúc. Hóa Công ([21]) sanh con người đâu phải cho con người sống ích kỷ. Vậy khách hầu đàn có nghe lời Bần Đạo phân chăng?
THI
Ảo ảnh phù du ([22]) cát bụi mờ
Chi bằng mượn lấy ít vần thơ
Để đưa khách tục về ngôi vị
Bến giác ([23]) Thần Tiên vẫn đợi chờ.
Chờ nguyên vị đến giờ khai hội ([24])
Nhắc chúng sanh hả hối lâm đàn
Nầy đây nhờ có Thiện Đàn ([25])
Hiệp đồng Nho sĩ khuếch trương Đạo nhà.
Người tu hiền Kỳ Ba mở cửa
Rán(g) dồi mài để sửa lòng mình
Tu sao cho được siêu minh
Lòng kia bác ái gội mình sạch đi.
Người anh tuấn nệ gì cõi tục
Kẻ tử quân thúc giục kỳ truyền ([26])
Lo tu cho được huờn nguyên ([27])
Ở chi cõi thế đau phiền lắm ru? ([28])
Người có tu ngàn thu bia để ([29])
Kẻ không tu khác thể sóng nhồi
Nhấp nhô chìm đắm thuyền côi ([30])
Rồi đây phải chịu ôi thôi đọa đày
Mài gươm báu,([31]) anh tài mau tới
Đá đóng rêu ([32]) ta mới rửa chùi
Ngọc mài cần phải tới lui ([33])
Mượn anh thợ khéo ([34]) để dồi ngọc trơn
Tình huynh đệ ([35]) đừng sờn keo gắn
Nghĩa kim bằng ([36]) thẳng thắn trở về
Động đào ([37]) là cảnh nhàn quê ([38])
Nào cờ thi tửu ê hề ([39]) thiếu chi
Nơi non ngoại ta thì lui tới
Ở phàm chi còn mới [mến] lợi danh
Ôi thôi nào cải nào canh
Đời tàn cõi tục, ai thành danh cao?
Thành nghĩa ấy, biết bao sóng vỗ ([40])
Hỡi khách trần phổ độ quần sanh
Khá tu ([41]) trọn tấm lòng thành
Không tu rồi bị quỷ ([42]) giành Kỳ Ba
Hỡi khách tục ai là nam tử
Kìa nghĩ xem nhớ chữ thượng thừa ([43])
Tương dưa cần phải mến ưa
Ham chi cá mặn không chừa món chi
Trường đại học ([44]) cần thi cho đậu
Buổi tàn nguy cất giấu anh tài ([45])
Chi bằng mở hoát kỳ khai ([46])
Rán(g) mà thi thố đoạt rày bảng danh.
Danh là vầy:
Danh của Đạo, danh thành Khổng Mạnh
Danh mùi đời cá tánh ([47]) tự kiêu
Danh chi lợi hão ([48]) phải tiêu
Danh như Khổng Tử, danh nhiều ngàn thu.
Danh Ngô Khởi ([49]) mờ lu chơn tánh
Sát thê hiền thọ lãnh tướng quân
Danh gì Trời Phật chẳng ưng
Danh thương nhơn loại, danh dưng Phật Trời
Danh thiên xú,([50]) hiền ơi có nhớ
Danh sử bia rạng rỡ Tam Tòa
Kìa xem khắp chốn trần la
Danh kia lợi nọ, ai là người danh
Nã Phá Luân ([51]) tạo thành Âu Á
Muốn gồm thâu độc bá đồ vương
Danh gì kỳ dị lạ thường
Danh như Hạng Võ,([52]) ai thương đó à
Đào mã tổ Tần mà kiếm báu ([53])
Sát chúng sanh để tạo vị ngôi
Danh kia còn phải buông trôi
Bị Hàn Tín nọ, ôi thôi rơi đầu!
Nhớ thuở nào công hầu khanh tướng
Khi thất cơ đình trưởng nhắc cho
Yêng hùng, quân tử mãi lo
Chi bằng lập chước,([54]) công to cõi đời
Mở Đại Đạo khắp nơi danh vị
Khổng Tử kia đâu nghĩ thân mình
Áo tơi hài tả linh đinh ([55])
Sang Tần, qua Sở tự mình thuyết ngôn ([56])
Danh như thế nào chôn hiền triết
Đến hôm nay có biết chăng à?
Tổ đình ([57]) tạo lập Kỳ Ba
Nhơn sanh ghi nhớ ơn mà Ngài đây
Kim và cổ, ta gây bia sử
Chánh hay tà có chữ nhứt tâm ([58])
Chư hiền chớ có lạc lầm
Thiên kinh vạn quyển hỏi tầm nơi mô?
Chỉ có tu hư vô trở gót
Người chánh chơn chắt mót từ li ([59])
Ngàn thu bia để sử ghi
Công dày khổ cực ta thì nặng thêm
Nhắc chữ tu ngày đêm không lãng ([60])
Nhớ đến tu bia rạng sử đề
Ai người muốn trở nhàn quê
Nhớ mà nhơn đạo vẹn thề tròn xong
Nay gặp hội Nho Tông Chuyển Thế ([61])
Nhắc nhơn sanh quy để lập trường ([62])
Đạo Trời có một tình thương
Thương người, thương vật là thương thân mình
Nhớ Thích Ca tận tình hoán chúng ([63])
Phế ngôi vàng hữu dụng đầu tròn ([64])
Không màng danh vị về non
Để mà hưởng lạc mới còn hôm nay ([65])
Nhớ đến chốn trần ai Bần tủi ([66])
Mượn cơ thần ([67]) giun rủi xuống trần
Nhưng mà chẳng thấy ai cần
Còn ham danh lợi nhiều phần lắm ru
Thôi cam đành ngàn thu vĩnh biệt
Uổng kiếp nầy chẳng biết trở về
Ham chi ở cõi trần mê
Tiền nhiều cũng bỏ não nề kề bên
Chuông Bạch Ngọc đã rền kiểng đổ
Mà chúng sanh không độ được lòng
Buông trôi nước chảy theo dòng
Đến ngày bỏ xác, trần hồng uổng thay!
Thảm thương thế giới khắp càn khôn ([68])
Dân tộc Á Âu phải lấp chôn
Mới gọi Long Hoa gần bế mạc
Ô hô! Tan tác cả linh hồn!
Giã từ tất cả Nho tông ([69])
Nữ nam an lạc tấm lòng thanh thanh
Bảng Tiên bền chí đoạt thành
Đến ngày quy vị tài lành lai quê ([70])
Non Tiên Nam Cực trở về
Xuất cơ thượng lộc, quy đề Thiên Cung.([71])
Thăng.



Chú thích của môn sanh Minh Đức Nho Giáo Đại Đạo (Trà Vinh):
([1]) quy tam: Gom ba nền tôn giáo lớn ở phương Đông là Nho, Thích, Lão về một gốc. Gốc đó là Thượng Đế.
([2]) người nguyên vị: Nguyên căn, nguyên nhân (nhơn), những người có căn cội từ Thiên Đình. độ tận người nguyên vị: (Mong muốn) độ hết chín mươi hai ức nguyên nhân còn trầm luân nơi cõi trần.
([3]) Trần Thế Độ: Thổ Địa Nam Phương, vị Thổ Địa trấn đàn tại Khổng Thánh Miếu (Trà Vinh).
([4]) Kỳ Tam: Tam Kỳ Phổ Độ: Thời kỳ thứ ba mà Thượng Đế mở Đạo để cứu độ nhơn sanh.
([5]) kỳ cùng mạt hạ: Giai đoạn cuối của hạ nguơn. Hạ nguơn là nguơn điêu tàn và tiêu diệt. Con người tàn ác, bạo ngược, đồi phong bại tục dẫy đầy.
([6]) kẻ nguyên căn: Cũng như người nguyên vị ở chú thích (2).
([7]) dặm: Đường đi xa xôi, khó nhọc. (Kiều: Hài văn lần bước dặm xanh.) lướt dặm: Lướt tới, băng ngàn (theo Paulus Của). đề: Tức là chữ đường, đọc trại ra cho hiệp vận chữ ở câu trên.
([8]) nhàn quê: Quê cũ nhàn nhã, tức là thượng giới.
([9]) tài bồi: Vun trồng; nuôi dưỡng. tài bồi đức đủ cội tùng xuê: Bồi đức thật nhiều và lớn ví như cây tùng xum xuê tàn lá. Cây tùng (thông) sống lâu, mùa lạnh lá vẫn xanh. Do đó, dùng hình ảnh cây tùng ở đây để hàm ý rằng có đức lớn thì trường tồn.
([10]) xê xang ú líu cống: Ngũ cung theo âm nhạc cổ Việt Nam (chẳng hạn như dây hò ba) là hò xự xang xê cống liu ú, tương đương với fa sol la do re fa sol. tình tang: Một cách diễn tả giọng đàn. (Thạch Sanh Lý Thông: Đàn kêu tích tịch tình tang / Ai mang công chúa dưới hang trở về.) Xê xang ú líu cống tình tang: Đức Nam Cực Tiên Ông ngụ ý Ngài đang đánh đàn, để tìm kẻ tri âm, thấu cảm tiếng đàn của Ngài mà tu hành theo lời Ngài dạy.
([11]) Chớ tưởng lợi danh, là ảo ảnh: Đừng nghĩ về lợi danh vì lợi danh dễ có, dễ mất tựa như ảo ảnh (hình ảnh giống như thật, nhưng không có thật).
([12]) lụy đa mang: Chịu nhiều tai họa.
([13]) lục tặc: Sáu tên cướp, ám chỉ lục dục (sáu ham muốn: mắt muốn nhìn đẹp, tai muốn nghe hay, mũi muốn ngửi thơm, lưỡi muốn nếm ngon, thân xác muốn sung sướng, ý nghĩ muốn vui). Lục dục phá hoại tâm thanh tịnh giống như kẻ cướp xông vào nhà quấy nhiễu.
([14]) thất tình: Bảy tình cảm là mừng (hỷ), giận (nộ), yêu (ái), ghét (), buồn (ai), vui (lạc), sợ (cụ).
([15]) động phủ: Nơi Tiên Thánh ở.
([16]) Yêng hùng đức đủ mới tài lành: Kẻ anh hùng đủ đức thì có tài cao mới không mang họa.
([17]) hồi nguyên: Trở về nguồn cội (là Đạo, Thượng Đế).
([18]) tế thế: Giúp đời.
([19]) Tế thế độ dân đến cửa thiền: Có người dẫn dắt một số đạo tâm đến hầu đàn nên Đức Nam Cực Tiên Ông khen tặng người dẫn khách.
([20]) xác thân tứ đại: Xác thân con người được cấu thành từ bốn yếu tố là đất, nước, gió, lửa.
([21]) Hóa Công: Thiên Công, thợ Trời (tức là Trời, Thượng Đế, Tạo Hóa).
([22]) phù du: Con nhện nước (chỉ sống một ngày rồi chết). Do đó, phù du có nghĩa là ngắn ngủi, chóng tàn.
([23]) bến giác: Giác ngạn, bờ giác ngộ; trái nghĩa với bến mê (mê tân: cuộc đời, thế gian). Từ bến mê sang bến giác phải nhờ thuyền bát nhã (là chánh pháp tu hành) vượt qua biển khổ (khổ hải).
([24]) khai hội: Mở Hội Long Hoa xét chọn người chơn tu đắc đạo.
([25]) Thiện Đàn: Chí Thiện Đàn.
([26]) Kẻ tử quân thúc giục kỳ truyền: Nhân thời kỳ Thượng Đế truyền đạo, bậc quân tử hãy ráo riết tu hành.
([27]) huờn nguyên: Trở về nguồn gốc (là Đạo, Thượng Đế).
([28]) ru: Chữ đặt cuối câu hỏi tu từ. (Kiều: Công đeo đuổi chẳng thiệt thòi lắm ru?)
([29]) Người có tu ngàn thu bia để: Người tu hành đạo đức được truyền tụng danh thơm muôn đời.
([30]) Nhấp nhô chìm đắm thuyền côi: Người không tu ví như một chiếc thuyền cô độc giữa biển dễ bị sóng nhận chìm.
([31]) mài gươm báu: Mài gươm trí huệ cắt đứt ngu muội (vô minh).
([32]) đá đóng rêu: Linh hồn (đá) u tối vì thất tình, lục dục (rêu) che phủ.
([33]) Ngọc mài cần phải tới lui: Hòn ngọc ẩn trong đá, cần phải mài giũa mới phát sáng. Cũng vậy, linh hồn phải gột rửa thất tình, lục dục mới sáng suốt.
([34]) anh thợ khéo: Người tu khéo, tu giỏi.
([35]) huynh đệ: Người đồng đạo xem nhau như anh em ruột thịt.
([36]) kim bằng: Bạn bè.
([37]) động đào: Cảnh Tiên, cõi Tiên.
([38]) Xem chú thích (8).
([39]) ê hề: Nhiều lắm, rất nhiều.
([40]) Thành nghĩa ấy, biết bao sóng vỗ: Danh vọng, địa vị ở cõi thế lúc nào cũng bấp bênh, dễ tan mất như bọt sóng.
([41]) khá tu: Hãy lo tu, hãy biết tu.
([42]) quỷ: Lòng dục. Người không tu thì bị lòng dục dẫn dắt. Người tu mới có thể chế ngự lòng dục.
([43]) thượng thừa: Bậc tu cao nhất. Bậc này mới mong giải thoát.
([44]) trường đại học: Cái học lớn của con người là làm sáng cái đức sáng sẵn có của mình (minh minh đức), là tu hành đến chỗ hoàn hảo (chí thiện). Ám chỉ câu mở đầu sách Đại Học: Đại học chi đạo, tại minh minh đức, tại thân [tân] dân, tại chỉ ư chí thiện.
([45]) Buổi tàn nguy cất giấu anh tài: Thời buổi nguy khốn, anh tài thường ở ẩn vì sợ bị bách hại.
([46]) mở hoát kỳ khai: Kêu gọi anh tài đạo đức đừng ở ẩn mà hãy ra mặt dẫn dắt chúng sanh.
([47]) cá tánh: Tánh cách riêng biệt của từng người.
([48]) lợi hão: Lợi không thiết thực, không có ích thật sự.
([49]) Ngô Khởi (440-381 trước Công Nguyên): Thời Chiến Quốc, khi nước Tề đánh nước Lỗ, Lỗ Mục Công muốn dùng Ngô Khởi làm tướng nhưng còn e ngại vì Ngô Khởi có vợ là người nước Tề. Ngô Khởi bèn giết vợ để tỏ lòng trung với Lỗ. Được Lỗ Mục Công phong làm tướng, ông cầm quân đánh tan quân Tề. Ông có tài quân sự nhưng vô đạo, cuối đời bị quân lính nổi loạn giết chết. Tích Ngô Khởi làm sáng nghĩa câu “Yêng hùng đức đủ mới tài lành” (chú thích 16 ở trên).
([50]) thiên xú: Muôn đời còn hôi thối.
([51]) Nã Phá Luân: Napoléon Bonaparte (1769-1821) với đế hiệu Napoléon I (vua nước Pháp). Ông đánh chiếm các nước ở châu Âu và đánh sang Nga (phần lớn lãnh thổ của Nga thuộc về châu Á) nhưng thất bại.
([52]) Hạng Võ (232-202 trước Công Nguyên): Là một vị tướng nổi dậy chống lại nhà Tần. Tánh ông hung bạo, hiếu sát. Bị Hàn Tín đánh bại, định chạy về Giang Đông (quê ông) để chiêu binh. Chạy đến bờ sông Ô Giang thì gặp đình trưởng. Đình trưởng nhắc Hạng Võ khi xưa đã dẫn 8.000 con em ở Giang Đông đi đánh trận, bây giờ chỉ còn một thân trở về, như vậy phải ăn nói thế nào với dân chúng Giang Đông. Hạng Võ ngộ ra và tự cắt đầu để đình trưởng giao nộp và lãnh tiền thưởng.
([53]) kiếm báu: Tìm kiếm vật báu.
([54]) lập chước: Lập cách khôn khéo để thoát khỏi khó khăn.
([55]) Áo tơi hài tả linh đinh: Áo và giày tơi tả, rách bươm trong lúc rày đây mai đó, không yên thân một chỗ.
([56]) Sang Tần, qua Sở tự mình thuyết ngôn: Đức Khổng Tử chu du các nước, mong thuyết phục các vua chư hầu thi hành Đạo của Ngài để cho dân chúng hưởng cảnh thái bình.
([57]) Tổ đình: Khổng Thánh Miếu của Minh Đức Nho Giáo Đại Đạo ở Trà Vinh.
([58]) Chánh hay tà có chữ nhứt tâm: Đạo chánh hay tà là do lòng dạ sắt son, trước sau như một (nhứt tâm), không thay đổi trước mọi thử thách (cám dỗ, khảo đảo).
([59]) chắt mót từ li: Góp nhóp từng li từng tí công quả, không chê là nhỏ nhặt mà bỏ sót.
([60]) không lãng: Không xao lãng, luôn để tâm vào việc tu hành.
([61]) Nho Tông chuyển thế: Dùng tông chỉ đạo Nho (chân truyền của Đức Khổng Tử) để thay đổi xã hội từ xấu thành tốt.
([62]) quy để lập trường: Trở về với Đạo để lập trường dạy đạo cho dân chúng biết hướng thiện, tu hành.
([63]) hoán chúng: Hoán cải dân chúng từ xấu thành tốt.
([64]) đầu tròn: Cạo đầu (thí phát).
([65]) Không màng danh vị về non / Để mà hưởng lạc mới còn hôm nay: Không màng danh vị sang cả, hưởng lạc thú trên ngai vàng mà bỏ vào rừng núi tu hành; nhờ vậy mà từ xưa cho tới hôm nay Ngài còn được đời đời kính thờ là Đấng Thế Tôn.
([66]) Bần tủi: Bần Đạo buồn tủi (vì chúng sanh còn mê danh ham lợi, không chịu thức tỉnh nghe lời Thần Thánh, Tiên Phật lo tu hành).
([67]) cơ thần: Ngọn cơ huyền diệu (thần diệu) làm phương tiện cho Thần Thánh, Tiên Phật ban trao chánh pháp cứu đời.
([68]) Thảm thương thế giới khắp càn khôn: Lời Đức Nam Cực Tiên Ông báo trước về thảm cảnh của thế giới ngày sau.
([69]) Nho tông: Tông đồ (học trò) đạo Nho, tức là môn sanh Minh Đức Nho Giáo Đại Đạo.
([70]) lai quê: Trở về quê cũ (cõi thượng giới).
([71]) Xuất cơ thượng lộc, quy đề Thiên Cung: Ra khỏi đàn cơ và lên lưng nai trở về Thiên Đình (Đức Nam Cực Tiên Ông cỡi nai, như hình ảnh Ông Thọ thường thấy trong cụm tượng Tam Đa).

MINH ĐỨC NHO GIÁO ĐẠI ĐẠO hình thành qua cơ bút, khởi đầu từ năm 1932 tại Ba Động, làng Trường Long Hòa, quận Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh.
Người có công gầy dựng buổi ban sơ là tiền bối Ngô Nghiêm Sanh (thánh danh Chơn Minh Sanh), tạ thế năm 1980, đắc quả Thiên Minh Quang Bồ Tát. Cùng góp công đức gầy dựng là tiền bối Ngô Minh Bè (bào huynh tiền bối Ngô Nghiêm Sanh), đắc quả Huỳnh Quang Bồ Tát.
Trước 1975, do lịnh Ơn Trên qua cơ bút, Minh Đức Nho Giáo Đại Đạo cất Khổng Thánh Miếu ở Trà Vinh, mở hai đàn Chí Thiện (Trà Vinh) và Tân Dân (Nha Rộn, Bạc Liêu; sau dời về Sài Gòn) để Ơn Trên dạy đạo qua cơ bút.
(Theo Huệ Khải, Hồ Biểu Chánh Xưa và Nay. Hà Nội: Nxb Tôn Giáo, 2014, tr. 57.)