Thứ Hai, 9 tháng 3, 2020

QUẢ CỘNG NGHIỆP CHÍN MUỒI / Đạo Uyển Hạ 2020 (tập 34)



Thánh giáo
QUẢ CỘNG NGHIỆP CHÍN MUỒI
Tam Tông Miếu, ngày 22-6 Ất Hợi.
ĐÔNG chiến Tây chinh, Nam Bắc loạn ([1])
PHƯƠNG chi ([2]) hóa giải ([3]) họa lan truyền
LÃO lai tài tận ([4]) vô mưu kế
TỔ giáo nhứt thành chế vạn duyên.([5])
Ý động thì loạn sanh
Tâm bình thì cảnh tịnh
Sóng lặng thì nước trong
Thân tu thì quốc trị.([6])
Cộng nghiệp ([7]) của chúng sanh từ vô thỉ đến nay,([8]) trải qua nhiều đời vô số kiếp, dồn chứa thành núi lớn Tu Di,([9]) (…)
Đến lúc quả cộng nghiệp chín muồi,([10]) rơi rụng thì tan tác, đổ sụp, nghiêng ngã, tàn phá tất cả. (…)
Ngày tận thế là lúc trái đất phải chịu trọng hình.([11]) Sự phán xét toàn bộ trên hoàn cầu,([12]) sự hành phạt [để] đền tội, trả quả đã công khai. Vật hữu hình tan hoại đã đành, cho đến vật vô hình, hồn ma bóng quế cũng ùa nhau mà lùng kiếm kẻ thù, oan oan tương báo,([13]) không mảy lông nào tránh lọt.
Buổi rốt ngày cùng, ai nợ ai ơn, ai gây ai tạo, ai vay mượn, ai cướp đoạt, lường lận, đến lúc nầy cũng phải thanh toán cho xong. Luật nhơn quả, lẽ công bình, Trời Phật cũng không tư vị ([14]) cho được. Nên kỳ tận thế nầy [là] để cho bất cứ ai trên đời còn sống, cũng như chúng sanh bên kia thế giới vô hình, được họp mặt giữa nhau để đền ơn báo oán, thanh toán xong món nợ thân thù,([15]) oan ưng ([16]) đã từng gây tạo.
Kiếp nạn ([17]) diễn trình có hại có lợi, có oan có ưng để chúng sanh một lần rửa sạch nghiệp chướng. Ma quỷ muốn gì, Trời Phật cũng cho nó tự do. Thứ gì thuộc về của nó, nó có quyền lấy lại; cái gì của thiên đạo, thiện duyên, nguyên căn bản thể thì không được xâm phạm. Nó thuộc về phần âm. Tà tâm, vật dục, mê vọng, bất chính, đều được quy về với âm mà nó làm chủ. Thứ gì, loại gì của chủ nào, [theo] luật công bình, được trả lại cho chủ nó.
Còn một giai đoạn cuối cùng, âm tận âm tiêu, dương khí trưởng thay vào làm chủ, thì âm ác, tà dục, khí dơ, cho đến quỷ vương, binh dân của chúng không sao tồn tại. Cảnh giới u minh theo âm mà cáo chung ([18]) trong kỳ tái tạo nầy.
Sau cuộc gạn lọc nầy thì cảnh giới trần gian trở nên cực lạc. Quả đất mới, đời mới, người mới, trong sạch hoàn toàn, tâm linh tỉnh sáng, cuộc sống thuần là hồn nhiên, chất phác. Vạn tượng ([19]) cũng một lòng, vạn bang ([20]) như một nhà. Trái đất được quét sạch. Lòng người cũng rửa sạch. Trên trời dưới đất một khối thái hòa hít thở trong sạch. Ý niệm hoàn phục lại tiên thiên, linh linh huyền nhiệm. Tình thức cũng y nhiên,([21]) căn cảnh ([22]) cũng như vậy, mà chúng xưa khác, nay khác, chỉ có động cơ, mà động cơ do Chí Tôn nắm giữ, không còn lo ngại.
Ngày đại kiếp hủy diệt trong kỳ tận thế tuy là tàn bạo, hung ác, quyết liệt của cơ Trời, bên trong có ẩn ý là giải thoát trọn vẹn cho chúng sanh. Một lần trả xong hết ráo tội khiên oan trái, không [phải] dây dưa lần hồi mới trả hết. Cũng như một bản án tội phạm năm, mười năm tù, khi xong được trả tự do; bằng ([23]) án nặng phải bị chung thân khổ sai; nếu án tử hình thì xử tử là rồi.
Cũng ví như chúng sanh tạo gây ác báo đời nầy, [qua] đời khác án treo quản thúc, sống hành xác, chết đi đầu thai, xuống lên vay trả cho rồi, dằng dai nhiều kiếp. Nếu đền trả mà không vay thêm, biết tu sửa lập công bồi đức thì tiến lên quả vị Tiên Thần; và ví như món nợ khá lớn, không còn cách nào trả được, thì chỉ có tịch biên gia sản ít nhiều, như thế là thanh toán xong.
Nào có khác chi nghiệp ác của chúng sanh. Không còn ngày giờ qua nhiều thế kỷ nữa. Lúc chung kết là ngày cùng, là nguơn mạt hậu, Thượng Đế Chí Tôn chỉ cần cứu thoát linh hồn. Các cửa luân hồi đóng hết, không có đời sau. Đời sau là thượng nguơn, tất cả đều mới, cảnh giới trong sạch trọn lành, cõi Thần Tiên dành cho người chơn thuần linh căn lưu trú.
Nên sự hủy diệt hoàn toàn khắp mặt đất, dọn sạch chông gai rác bụi. Chúng sanh tạo nghiệp nào thì theo nghiệp nấy mà lãnh bản án đến pháp trường. Chết nước, chết lửa, chết vùi lấp, chết đao binh, hay chết loại hình nào tội án đã định. Sát kiếp bằng cách nào bất ngờ không thể biết, cũng gọi tử hình. Nợ nần, oan trái, nghiệp quả đều dứt sạch, như tịch biên gia sản, như tử hình. Trả xong, trang trải đủ; bỏ xác, hồn được siêu.
Chúng sanh nào không nợ máu, thiện nghiệp, không hại đạo, [không là] phản đồ,([24]) ý lòng thiện ác quân phân, đến ngày rốt, Thầy (Thượng Đế) trục nguyên tử chơn thần ra, hủy bỏ mạng căn. Đó là phương cứu rỗi.
Nếu trong đám chúng sanh nầy thấy tai biến kiếp họa mà biết hồi đầu,([25]) quay lại đường lành, truất bỏ dục vọng tâm tà, thì cũng được đăng siêu.
Còn những nhơn sanh sớm biết hồi đầu, đã vào cửa đạo, tên tuổi [đã ghi] vào bộ hồng danh,([26]) [nhưng] chưa mấy nhiệt thành, tục tăng lỏng chỏng,([27]) gặp lúc tai biến mà phát động tâm từ, đoái hoài đồng loại, phát nguyện bố thí lập công, làm nhơn làm phước, để cầu cho nhơn dân bá tánh qua cơn hoạn nạn, thì môn sanh đạo hữu nầy ý niệm đổi hướng, thẳng đến bồ đề. Đạo hạnh, công đức tức khắc giương cao. Đứng trên thói tục lòng tà, ra khỏi vật dục lòng trần, tự khắc phàm phu hóa thành Thần Thánh.
Nếu lòng trắc ẩn, tâm từ bi phát nguyện đưa lưng ra hứng chịu, đón nhận khổ đau cho nhơn loại, lãnh thay chịu thế cho chúng sanh; chí khí can trường, có những tình niệm bao trùm một xứ, một cõi, một đất nước nào đương bị sát kiếp hoành hành; trải tâm gánh vác, động đến đất trời. Tuy không dấn thân tại trận, cũng được Thiên Đình ghi công, đón mời và trợ giúp cho ý nguyện, chứng đến quả Phật không sai.
Muốn chống thiên tai, sát kiếp, chỉ cần phát tâm công phu thiền định. Tọa công ngồi tại đạo tràng mà phóng tinh thần, gieo rải thiện duyên kết hợp với huyền linh ân điển xua đẩy sát khí. Tư tưởng càng mãnh liệt, hung sát tự khắc thối lui. Thiền định càng thâm, càng giải phóng cứu người càng dễ.
Chư môn sanh đạo hữu khéo vận dụng tâm ý đi đúng đường, ứng dụng vào động tĩnh ([28]) cũng kết quả. Tâm ý là cái động cơ chủ tể nơi người, tác phước tạo nghiệp do nó. Thiên đường hay địa ngục bởi tâm ý mà ra. Người chủ trì được tâm ý, làm Tiên làm Phật rất dễ dàng; mà để tâm ý xiêu dạt, nó sẽ đưa người vào vực sâu biển khổ.
Trong lúc tai biến, động loạn xáo trộn trên hoàn cầu, là một cơ hội cho đạo hữu phát tâm, gieo tư tưởng sự sống tình thương đến những nơi có tai biến. Kết quả rất lớn mà tiến đạo rất mau. Tu một lúc cũng bằng tu trọn đời. Dầu tu trọn đời mà không gặp cơ duyên, cũng không bằng tu một ngày có cơ hội.
Con người có Phật tâm, đạo đức, trông thấy cảnh lầm than liền động lòng thương xót; đâu như chai đá mà chẳng thấy khổ tâm. Đạo hữu chuyên cần công phu tu học thiền định, tạo một bầu hạo khí ([29]) thái hòa chở che cho Thánh Hội, cho đạo tràng, cho thân, cho xứ sở. Đó là công đức tăng cường nghị lực, làm chủ nội ma ngoại chướng.([30]) Khí lực được dồi dào, tinh thần minh mẫn, sức khỏe gia tăng, lập chí dẻo dai; nhiều ngày nhiều tháng lo không thành Phật được sao ?
Đạo giáng hỏa trạch,([31]) Đạo khai trong lúc kiếp nạn, tiếp độ người lành kẻ dữ; biết giác ngộ thì giải thoát mau lẹ. Thế gian mê nhiễm sâu dày, không dụng oai linh có mấy ai thức tỉnh. Đời hay cậy sức mạnh, tài trí, danh lợi; đến lúc âm dương, ngũ hành hậu thiên bị thâu hồi, tất cả gì gì cũng hóa thành vô dụng, kẻ trí mới thấy được chỗ sâu kín ẩn khuất bên trong cái sở hữu của họ.
Cái thấy nghe, hay biết tầm thường, hạn hẹp của thế gian, bởi chấp cái tiểu ngã;([32]) nó làm hỏng mất cái nguyên cơ.([33]) Nó đóng khung cái tâm tánh vào trong ý niệm nhỏ bé, nên lương tâm không chỗ mở rộng. Nếu con người tu hành trừ bỏ được cái ngã chấp,([34]) mới trương nở ([35]) tứ vô lượng tâm (từ bi hỷ xả). Ngã chấp không còn, thì căn cảnh ý tình, tánh tâm hoàn thiện.
Tâm tánh hoàn thiện hợp với huyền linh, tương đồng cùng trời đất, giao liên các cảnh giới thanh tịnh. Dọc theo một hệ thống siêu linh, có một lực lượng chạy dài qua thời gian, trải khắp không gian; nó quét sạch được độc khí, ác chướng ma tà. Nên khi các động cơ tâm đạo khởi tác hướng về đâu, đến cảnh giới nào, kéo luôn một đoàn linh khí theo tâm hướng, trở thành một sức mạnh đánh tan mọi chướng hóa. Mọi dị biệt tức khắc phân khai, mà cõi nước, địa giới hay cá nhân đó trở lại bình thường, thanh lặng. Nên những hành giả, giờ giấc công phu sản sanh điển huệ; luật đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu, kết nên một tràng [trường] hạo khí lan tỏa đến đâu cũng giải tán được trọc âm (chúng tụ tập để gây tai biến).
Nên công phu thiền định, tịnh tu ở chùa chiền, có một công năng ([36]) rất linh diệu. Kẻ phàm phu đến đó, hấp được khí thiên đánh lui ý tà ám độn ([37]) bất an, được khỏe vui cảm khoái mà tỉnh ngộ. Ấy cho nên chư môn sanh kết hợp liên th([38]) cùng nhau hành thiền nhập tịnh, bảo quản đạo tràng, thánh sở, mà sát nhập cùng Thiên lý lưu tán ([39]) trong nhơn gian, tiêu trừ sát nghiệp.
Vì cớ đó mà Bác Nhã Thiền Sư ([40]) trộm nghe thánh ý, trông thấy trẫm triệu ([41]) không lành, luồng ám khí lảng vảng trên nền đất nước nhà, nên Ngài lập tức nhập thần cho HNNT([42]) báo động, để chư thiên ân và đạo hữu chia công, kết nối, xin nguyện tịnh công, hành thiền để hòa hợp điển lành cho Thiêng Liêng sử dụng. Đó là một dịp tiến đức tấn đạo, tăng trưởng đạo tâm, mà còn góp công lập nên công đức, kết duyên cùng đồng loại và các lân bang ([43]) trên đại địa.([44])
Vậy Bần Đạo lãnh Thiên mạng ban lịnh cho Minh Lý Thánh Hội và Hội Thánh Truyền Giáo y lịnh thi hành.
(. . .)
Bần Đạo ban ơn, chào mừng chư thiên ân và môn sanh nam nữ.

PHỤ ĐÍNH

Khi dạy về quả cộng nghiệp chín muồi, về ngày tận thế, Đức Tôn Sư có nói tới những người “đã vào cửa đạo, tên tuổi [đã ghi] vào b hồng danh.
Bộ (bạ 簿: register) là sổ sách ghi chép cho một lãnh vực chuyên biệt. Chẳng hạn, sổ sách ghi chép về đất đai sở hữu của người dân được gọi là địa bộ 地簿 (land register).
Hồng danh 洪名 (venerable name) thường được hiểu là tôn hiệu 尊號 (honoured title) của một Đấng thiêng liêng. Chẳng hạn tụng Di Lạc Chơn Kinh trong đạo Cao Đài là tụng hồng danh các Đấng.
Nhưng trong lời dạy của Đức Tôn Sư (dẫn trên), chúng ta tạm hiểu hồng danh là họ tên (thế danh) hoặc thánh danh (đạo danh) của các vị tu hành được ghi chép vào sổ sách trên Thiên Đình. Nhưng làm sao chúng ta biết mà tin được việc… trên trời?
Trong Kỳ Ba đại ân xá, để khuyến khích chúng sanh ham thích tu hành, có một số thánh giáo hé lộ cho môn sanh Cao Đài biết chút ít bí mật huyền vi về bộ hồng danh. Nhờ thế, những ai được ghi tên vào sổ sách nhà Trời thì càng thêm ý thức, càng cố gắng giữ mình cho tròn vẹn đạo đức, phẩm hạnh, ngõ hầu xứng đáng với ơn phước vô biên ấy.([45])
Thật vậy, khi học hỏi rất nhiều thánh giáo Kỳ Ba, chúng ta có thể nhận biết các điều như sau:
1. Đức Chí Tôn (Thầy) và Đức Mẹ Diêu Trì toàn quyền ban thánh danh cho con cái.
2. Ngoài ra, thánh danh được ban trao là do Tam Giáo Tòa ban hồng ân. Chẳng hạn, tại Thiên Lý Đàn (quận Ba, Sài Gòn), ngày 03-9 Canh Tý (Thứ Bảy 22-10-1960), khi ban thánh danh cho tiền bối Nguyễn Thị Ký, Đức Khổng Thánh Tiên Sư dạy:
Hôm nay Bổn Thánh thay mt Tam Giáo Tòa để ban thánh danh cho Nguyễn Thị Ký nay đã đắc vị thọ phong là An Hòa Thánh Nữ.
3. Vì vậy, khi ban thánh danh cho môn sanh Cao Đài, các Đấng khác hơn Tam Giáo Đạo Tổ thường nói rõ là thừa lịnh Tam Giáo Tòa. Chẳng hạn:
3.1. Tại thánh tịnh Ngọc Minh Đài (quận Tư, Sài Gòn), ngày 15-7 Bính Ngọ (Thứ Ba 30-8-1966), Đức Lý Đại Tiên Trưởng Thái Bạch Kim Tinh dạy tiền bối Lương Văn Hích (sinh ngày 18-4-1905):
Thừa lnh Tam Giáo Tòa, nhơn danh Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, ban thánh danh cho hiền đệ là Chí Kỉnh để đánh dấu bước đầu đệ tam tam cá nguyệt.
3.2. Tại thánh tịnh Ngọc Minh Đài, ngày 15-7 Bính Ngọ (Thứ Ba 30-8-1966), Đức Lý Đại Tiên Trưởng Thái Bạch Kim Tinh dạy tiền bối Trần Thị Nhãn (1919-1982):
Thừa lnh Tam Giáo Tòa, nhơn danh Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Bần Đạo ban đạo danh cho hiền muội là Thanh Hà, để đánh dấu công quả trên bước đường đào tạo mầm non cho Đại Đạo.
3.3. Tại thánh tịnh Ngọc Minh Đài, ngày 15-10 Đinh Mùi (Thứ Năm 16-11-1967), Đức Thái Bạch Kim Tinh dạy tiền bối Hồ Văn Có (1908-1987):
Hồ Văn Có nghe. (. . .) Bần Đạo thừa lnh Tam Giáo Tòa ân ban hiền đệ đạo danh là Chí Thuần.
3.4. Cùng đàn ấy, Đức Lý dạy tiền bối Đoàn Ngọc Khoái (1926-1985):
Đoàn Ngọc Khoái, (. . .). Thừa lnh Tam Giáo Tòa, ân ban hiền đệ đạo danh là Chí Mỹ.
3.5. Cùng đàn ấy, Đức Lý dạy tiền bối Bùi Nguơn Huân:
Bùi Nguơn Huân, (. . .). Thừa lnh Tam Giáo Tòa, chứng tâm đạo hiền đệ trong sự chí thành phục vụ Cơ Quan. Bần Đạo ân ban hiền đệ đạo danh là Đạt Phước.
4. Người bước vào cửa đạo (nhập môn) thì có tên ghi trong sổ sách Thiên Đình. Tại Minh Lý Thánh Hội, ngày 01-9 Kỷ Dậu (Thứ Bảy 11-10-1969), Đức Quan Âm Bồ Tát dạy:
Khi nhập môn rồi, đương nhiên tên, họ, lý lịch mình sẽ được ghi vào tịch đạo của tôn giáo đó và chịu theo nếp sinh hoạt của tôn giáo đó từ nội quy đến giáo thuyết, giáo điều. Còn về phần thiêng liêng thì cũng đã đưc ghi danh tánh vào Thánh tịch hoc Tiên tịch hay Pht tịch.
5. Người được ban thánh danh (đạo danh) thì tên được Thiên Đình ghi vào Tiên tịch 仙籍 (sổ Tiên). Chẳng hạn:
5.1. Tại Vĩnh Nguyên Tự (xã Long An, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An), ngày 08 rạng 09-11 Bính Thìn (Thứ Ba 28 rạng Thứ Tư 29-12-1976), Đức Vô Cực Từ Tôn Diêu Trì Kim Mẫu dạy:
Mẹ cũng ban ơn cho các con dày công tâm đạo trong đợt tu này được đạo danh. Đạo danh mà Mẹ sắp ban hay đạo danh mà các con đã được ban là quý báu vô cùng. Chẳng những đó là tấm gương phản chiếu cho tự tánh của con mà cũng là ghi vào Tiên tịch khi con bước trên nấc thang đại thừa thiên đạo. Nên mỗi khi các con có lầm lỗi hãy nhớ đến đạo danh Thiêng Liêng đã ban cho con mà mau mau hành học cho đúng ý nghĩa của đạo danh ấy tức là Tiên tịch đã ghi rồi vậy.
5.2. Tại Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam, ngày 14-8 Đinh Tỵ (Thứ Hai 26-9-1977), Đức Vô Cực Từ Tôn Diêu Trì Kim Mẫu dạy tiền bối Nguyễn Văn Minh (1913-1980):
Nguyễn Văn Minh, Mẹ ban đạo danh cho con là Chơn Thiện Minh. Con hãy vững bước tiến. Đo danh của con sẽ đưc ghi vào Tiên tịch.
6. Nhiều môn sanh Cao Đài tu học, hành đạo rất tích cực, nhưng mong mỏi hoài vẫn chưa được ban thánh danh. Ở California (Hoa Kỳ), tại thánh sở uy tín nọ có một vị đáng kính, thế danh NHT, tuổi ngoài tứ tuần, cũng mang nỗi niềm ấy. Vào giờ Ngọ ngày 21-11 Canh Thân (Thứ Bảy 27-12-1980), Đức Lý Giáo Tông phụng lịnh Đức Chí Tôn giáng đàn để kiểm duyệt bản thảo nội quy của thánh sở ấy. Trước khi khởi sự kiểm duyệt, Đức Lý soi thấu tâm sự của môn sanh NHT đang hầu đàn, nên Ngài từ bi ban lời phân giải:
NHT hãy lắng nghe. Lời hiền đồ thỉnh nguyện Ơn Trên thì lẽ đâu không được phê chuẩn. (. . .) Hiền đồ phải nên biết tất cả bảng thánh danh nơi Kim Môn hãy chưa có danh thánh của hiền đồ.
Hôm ấy, Đức Lý chỉ an ủi chứ không ban thánh danh cho môn sanh NHT. Ngài gìn giữ Thiên luật rất nghiêm.


([1]) Đông chiến Tây chinh, Nam Bắc loạn (Everywhere is suffering from wars and disorder): Khắp mọi nơi đều bị chiến tranh, loạn lạc. (Đông, Tây, Nam, Bắc dùng theo nghĩa phiếm định, nghĩa là khắp nơi.)
([2]) phương (method): Phương cách, phương pháp. phương chi: Cách gì, cách chi (what method); cách nào (which method).
([3]) hóa giải 化解 (resolving, dispelling): Giải quyết, tiêu trừ, dứt bỏ. Td: hóa giải mâu thuẫn (resolving contradictions); hóa giải nghi vấn (dispelling doubts); hóa giải chướng ngại (ironing out difficulties); hóa giải xung đột (defusing conflicts); hóa giải sợ hãi (neutralizing fears).
([4]) lão lai tài tận 老來才盡 (at old age, ability or talent ends): Tuổi già đến, tài năng hết cạn. Ý nói con người đến tuổi già thì thường vụng về, kém khôn ngoan.
([5]) tổ giáo 祖教 (ancestral teaching): Lời dạy của tổ sư, tức là chánh pháp chân truyền. nhứt thành 一成: Một khi thành tựu (once succeeding); thành tựu trọn vẹn (entirely succeeding). chế (controlling, dominating): Chế ng制御. vạn duyên 萬緣 (all conditions, all reasons): Mọi điều kiện, mọi duyên cớ. (Chế ngự được vạn duyên thì không còn tạo nghiệp nữa, vì nhân mà thiếu duyên thì không kết thành quả.)
([6]) Thân tu thì quốc trị 國治 (People’s self-cultivation results in their well-governed country): Dân chúng tu thân thì đất nước an trị. Sách Đại Học 大學 (Great Learning) có câu này: Thân tu nhi hậu gia tề, gia tề nhi hậu quốc trị, quốc trị nhi hậu thiên hạ bình. 身修而後家齊, 家齊而後國治, 國治而後天下平. James Legge (1815-1897) dịch: Their persons being cultivated, their families were regulated. Their families being regulated, their states were rightly governed. Their states being rightly governed, the whole kingdom was made tranquil and happy. (Người dân tu thân được rồi thì gia đình yên bề. Gia đình yên bề được rồi thì đất nước an trị. Đất nước an trị được rồi thì thiên hạ yên bình.)
([7]) cộng nghiệp 共業 (collective karma): Nghiệp xấu mà cả một tập thể phải cùng nhau chung chịu trả quả.
([8]) vô thỉ (thủy) 無始 (lacking beginning): Không có chỗ bắt đầu. từ vô thỉ đến nay (tự vô thỉ dĩ lai 自無始以來: from the very beginning till now): Từ rất xa xưa (không thể xác định được) tới nay.
([9]) Tu Di 須彌 (Sumeru): Một hòn núi rất lớn, ngoài sức tưởng tượng của con người. Trung Anh Phật Học Từ Điển 中英佛學辭典 (A Dictionary of Chinese Buddhist Terms) của W.E. Soothill và L. Hodous giải thích: Tu Di cũng gọi là Tu Di Lâu; Di Lâu; Tô Di Lâu; Tu Mê Lâu; về sau gọi là Tô Mê Lô; là ngọn núi trung tâm của mọi thế giới, dịch là Diệu Cao, Diệu Quang, v.v...; trên đỉnh là cõi Địa Cư Thiên, bên dưới là Tứ Thiền Thiên; vây quanh là tám vòng núi bao bọc và ở giữa chúng là tám biển, tất cả hình thành chín núi và tám biển. (須彌 Sumeru, also 須彌樓; 彌樓; 蘇彌樓; 修迷樓; later 蘇迷盧; the central mountain of every world, tr. as 妙高; 妙光, etc., wonderful height, wonderful brilliancy, etc.; at the top is Indra's heaven [地居天], or heavens, below them are the four devalokas [四禪天, i.e. four dhyāna devalokas of the region of form]; around are eight circles of mountains and between them the eight seas, the whole forming nine mountains and eight seas.)
Cộng nghiệp của chúng sanh từ vô thỉ đến nay, (...) dồn chứa thành núi lớn Tu Di: Ý nói cộng nghiệp của loài người trên thế gian hiện nay vô cùng to lớn, vô cùng nặng nề, vượt ngoài sức tưởng tượng của con người (inconceivable).
([10]) Mượn các chữ in đậm tạm đặt nhan đề cho bài thánh giáo này. quả cộng nghiệp (cộng nghiệp chi quả 共業之果: the fruit of collective karma): Quả báo do nghiệp chung của một tập thể gây ra.
([11]) trọng hình 重刑 (severe punishment): Hình phạt nặng nề.
([12]) hoàn cầu 寰球 (the whole world): Toàn thế giới.
([13]) oan oan tương báo 冤冤相報 (eye for eye, tooth for tooth): Oan uổng, bất công (injustice) có bất công, oan uổng đòi nợ lại.
([14]) tư vị (one-sided, biased, unfair): Thiếu công bằng vì theo tình cảm riêng, thiên lệch, thiên vị .
([15]) thân thù 親讎: Chịu ơn là thân, phải trả nợ; gây oan chuốc oán là thù, phải chịu đòi nợ. Ơn oán đều là nợ phải trả, nên gọi là nợ thân thù.
([16]) oan ưng 冤應 (injustice and justice): Bất công là oan, công bằng là ưng.
([17]) kiếp nạn 劫難 (calamity, disaster): Thảm họa tàn khốc, dữ dội trên phạm vi rộng lớn.
([18]) cáo chung 告終 (ending, reaching an end): Chấm dứt.
([19]) vạn tượng 萬象 (innumerable manifestations of nature): Muôn vàn (vô số) những hình tướng biểu hiện của thiên nhiên (thế giới tự nhiên) có thể nhìn thấy quanh chúng ta.
([20]) vạn bang 萬邦 (all nations, all countries): Muôn nước, tất cả các quốc gia.
([21]) y nhiên 依然 (as before): Vẫn thế, vẫn vậy, như cũ, như xưa.
([22]) căn cảnh 根景 (senses and external conditions): Con người có sáu căn (lục căn 六根) gồm mắt (nhãn ), tai (nhĩ ), mũi (tỵ ), lưỡi (thiệt ), thân thân, ý” . Cảnh bên ngoài tác động có thể chi phối sáu căn, khiến tâm xáo trộn.
([23]) bằng (if): Nếu.
([24]) phản đồ 反徒 (disloyal disciple): Môn đồ phản đạo, học trò phản thầy.
([25]) hồi đầu 回頭 (turning one’s head back; fig. awaking to illusions of life): Quay đầu lại; tỉnh ngộ, thức tỉnh.
([26]) đã vào cửa đạo, tên tuổi [đã ghi] vào bộ hồng danh: Xem Phụ Đính cuối bài thánh giáo này.
([27]) tục tăng lỏng chỏng: Tu không ra tu, tục không ra tục.
([28]) động tĩnh 動靜 (movement and stillness; activities; behaviour): Hoạt động và ở yên; hành vi, cử chỉ. Trang Tử (Nam Hoa Kinh 南華經, chương Thiên Hạ 天下) nói: Động tĩnh vô quá, vị thường hữu tội. 動靜無過, 未嘗有罪. (Hành vi, cử chỉ không lỗi lầm; chưa hề có tội.)
([29]) hạo khí 浩氣: Chánh khí. Nói tắt của hạo nhiên chi khí 浩然之氣, tức là khí hạo nhiên, tinh thần quang minh chánh đại, chí khí bất khuất.
([30]) ma chướng 魔障 (obstacles to self-cultivation): Những chướng ngại cản trở việc tu hành. nội ma ngoại chướng (internal and external obstacles to self-cultivation): Những chướng ngại cản trở việc tu hành, chúng có sẵn trong thân, trong tâm và do bên ngoài đưa đến.
([31]) hỏa trạch 火宅 (burning house, house on fire): Nhà cháy, ý nói cảnh khổ vô cùng (tormenting situation).
([32]) tiểu ngã 小我 (the self): Cái ta nhỏ hẹp, phàm ngã 凡我.
([33]) nguyên cơ 原基 (original foundation): Cơ sở ban đầu, nền tảng gốc, tức thiên chân 天真 (the divine nature within each person).
([34]) ngã chấp 我執 (the attachment to one’s self): Bám chặt vào cái ta của mình.
([35]) trương nở (developing, expanding): Mở rộng, phát triển.
([36]) công năng 功能 (function, capability): Công dụng, năng lực.
([37]) ám độn 暗遁 (hiding secretly): Bí mật giấu mình.
([38]) liên thủ 連手 (cooperating): Chung tay cùng làm.
([39]) lưu tán 流散 (spreading, dispersing): Lan tỏa rộng ra.
([40]) Bác Nhã Thiền Sư: Thế danh là Tôn Văn Khuê (1897-1972), tên trong khai sinh là Nguyễn Văn Miết, người làng Lợi Bình Nhơn, tổng Hưng Long (nay thuộc thành phố Tân An), tỉnh Tân An (nay là tỉnh Long An). Minh Lý Đạo khai năm 1924 thì ngài là một trong mười hai vị khai đạo. Ngài làm Phó Hội Trưởng của Hội Tam Tông Miếu (từ 1927), và làm Hội Trưởng (từ 1951). Ngài dày công phiên dịch kinh sách chữ Nho của Tam Giáo, soạn sách quốc ngữ, và ấn tống (thường lấy bút danh Nguyễn Minh Thiện vì thánh danh là Minh Thiện). Quy thiên tại Sài Gòn, ngài đắc quả Bác Nhã Thiền Sư Tam Tông Pháp Chủ Nguyên Quân Bồ Tát 般若禪師三宗法主元君菩薩. (Sinh tiền, ngài chủ trương viết bác nhã thay vì bát nhã.)
([41]) trẫm triệu 朕兆 (warning sign, omen, forewarning): Điềm báo trước.
([42]) HNNT: Thánh danh một vị môn sanh Minh Lý Đạo.
([43]) lân bang 鄰邦 (neighboring countries): Các nước láng giềng.
([44]) đại địa 大地 (the earth): Trái đất.

([45]) Đức Mẹ dạy: Nên mỗi khi các con có lầm lỗi hãy nhớ đến đạo danh Thiêng Liêng đã ban cho con mà mau mau hành học cho đúng ý nghĩa của đạo danh ấy tức là Tiên tịch đã ghi rồi vậy. (Vĩnh Nguyên Tự, Thứ Ba 28 rạng Thứ Tư 29-12-1976)

HUỆ KHẢI chú thích & LÊ ANH MINH hiệu đính