QUÃNG ĐỜI HỌC TRÒ GIAN
KHỔ
Giáo Hữu THƯỢNG CÔNG THANH
Trong một lần về quê, qua một người cháu ở
thánh thất Từ Quang (thôn Cẩm Phú, xã Điện Phong, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng
Nam), hiền huynh Đỗ Phú Công được một đồng tử chấp bút để giúp huynh thọ ân điển
Thiêng Liêng. Vào Tuất thời ngày 02-3 Tân Mão (Thứ Hai, 04-4-2011), có Đức Bạch
Phụng Đồng Tử báo đàn, sau đó Đức Cao Đài Giáo Chủ giáng lâm. Thầy ban ơn cho hiền
huynh như sau (trích):
CÔNG
con ơi, đời nguy lắm khổ
Con
vào đời là độ chúng sanh
Cầm
cương quyền pháp nguồn lành
Độ
sanh, độ tử phải hành cho xong.
Đời của con cuồng phong bao trận
Trải bao phen số phận đau thương
Một thân dãi nắng dầm sương
Một tay chèo chống buồm trương lái lèo.
Trải bao cảnh khổ nghèo kiếp sống
Trải bao phen gió lộng điên nguy
Gia đình con gặp thời suy
Mà con còn lắm nỗi gì phân vân.
Những câu thánh thi trích lại trên đây hoàn
toàn đúng với cuộc đời Đỗ hiền huynh từ buổi ấu thơ cho đến khi trưởng thành.
Đạo Uyển xin trích đăng một phần hồi ký (bản thảo tháng 11-2014) của Đỗ hiền
huynh để chia sẻ với quý bạn đạo quãng đời học trò gian nan, khổ nghèo của hiền
huynh.
Tôi sinh ngày 08-8 Quý Mùi (Thứ Ba 07-9-1943) tại làng Kỳ Lam, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam,
trong một gia đình Nho Giáo. Ông
nội mất lúc cha tôi mới lên năm tuổi. Bà nội tần tảo nuôi hai con đến tuổi trưởng thành thì chú tôi
mất. Cha tôi có vợ sớm và có nhiều con
(bảy trai, một gái).
Tôi lên tám
thì cha tôi cho tôi đi giữ trâu nhà ông Hương Hồi. Một buổi nọ trời dông, sét đánh,
trâu chạy mất. Tôi khóc lóc, chạy về nhà vì sợ
mất trâu. Rồi còn những ngày khác,
tôi lo sợ chủ rầy vì cắt cỏ không đủ cho trâu ăn. Tôi kể
với mẹ tôi và mẹ tôi cũng khóc theo, rồi mẹ quyết định cho tôi ở nhà.
Tôi đi học chữ quốc
ngữ với ông Hương Lương (Giáo Hữu Ngọc Cang Thanh)
và ông Phó Cầu (Đỗ Phú Cầu). Đến khi đình chiến
(1954), trường Kỳ Lam mượn được nhà thờ họ Trần để mở lớp dạy học. Tôi học lớp Năm (nay là lớp Một) đến hết lớp Tư (nay là lớp Hai) thì trường cộng đồng Dẫn Đạo
Kỳ Lam được tỉnh xây dựng khang
trang. Tôi thi vào đỗ, và học lớp Ba ở
đây. Lúc đầu còn khó khăn, học chỉ ở mức trung
bình; nhưng năm sau và năm kế tiếp,
hằng tháng tôi đều có tên trên bảng danh dự.
Hết bậc tiểu học,
tôi đành ở nhà vì không có điều kiện tài chánh.
Cha tôi gởi tôi ra Đà Nẵng để học nghề gò
thùng với người bác trong
họ; khi đi chỉ vỏn
vẹn hai cái quần đùi và một
cái áo sơ mi. Tôi làm việc rất vất vả. Sáng
dọn hàng ra, tối dọn hàng vào. Ăn cơm xong,
tắm giặt cái quần, mong trời đừng mưa, mai mới có quần mặc. Còn
áo thì để dành, phơi mình ra nắng gió. Học nghề mới ba
tháng, tôi trốn về vì nhớ cha nhớ mẹ,
nhớ đàn em. Mặc cha tôi la rầy, tôi vẫn không đi Đà Nẵng
nữa, ở nhà làm ruộng.
Một năm sau, mở trường Nguyễn Duy Hiệu cách làng chừng bảy
cây số. Tôi xin đi học lại, học phí thì có
anh Ba (con người dì) giúp. Tôi rất cố gắng,
mặc dù phải đi bộ hằng ngày. Sách vở không đầy đủ
và phải lo công việc nhà, nhưng năm nào tôi cũng lên lớp.
Kỷ niệm đáng nhớ
trong đời tôi là một lần đi hái dâu ở biển Long Hội, khi nghe tàu lửa
hụ mà dụt (giỏ) dâu chưa đầy, tôi khóc nức nở. (Tàu đến ga Kỳ Lam đúng 10 giờ 30, cất tiếng
hụ trước khi chạy tiếp vào Sài Gòn.) Bà Sinh đi qua hỏi: “Chuyện
gì con khóc?” Tôi nói: “Thưa bà, cha con giao nhiệm vụ
cho con là phải hái đầy dụt dâu mới được về đi
học. Hôm nay trời có gió bấc nên dâu
héo, con hái
không đủ. Về trễ,
không đi học kịp; còn về sớm thì sợ
cha không cho đi học nữa, nên con tủi mà khóc.” Thế là bà
kêu mọi người tới hái phụ cho tôi, chẳng bao lâu dụt
dâu đã đầy. Tôi về, vừa đi vừa chạy cho
kịp giờ học. Lúc ấy, từ đâu bay đến một tờ
giấy, tôi nhặt rồi đem về đọc, thấy có hai bài thơ thất ngôn bát cú như sau:
- Bài thứ nhất nhan đề là Thương.
Thương vì oan nghiệt của trần gian
Thương
thấy đạo mầu chẳng hỏi han
Thương
Chúa giáng lâm ai rõ biết
Thương
tài cứu thế người chê bán
Thương
phép huyền linh chúng chẳng màng
( . . . . . . . . . . . . quên câu 7 . . . . . . . . .
. . . )
Thương
nên ta phải hết lời than.
- Bài thứ hai nhan đề là Tiếc.
Tiếc ai chẳng
biết nghĩ lo xa
Tiếc
mối đạo tâm khó kiếm mà
Qua những lần đám giỗ
ở gia đình, tôi thích thú nghe những bài kinh Cao Đài, nhưng
có thì giờ đâu mà đọc. Vả lại sách cũng chẳng
có bao nhiêu. Đạo hữu chép kinh
hoặc thánh ngôn, thánh
giáo, bảo quản tốt, chuyền tay nhau. Người
thân thích mới cho mượn. Khi đọc, họ
mặc áo quần tử tế.
Tôi đến thánh
tịnh Thanh Quang (lúc ấy còn mượn nhà bác Hương
Ba) nhưng chỉ đứng ngoài cửa nhìn vào, hễ thấy cha tôi thì lật đật chạy về. Hình như lúc bấy giờ
có quan niệm lớn tuổi mới tu, đàn ông đi thánh thất
nhiều hơn đàn bà.
Đầu năm 1963, trường
trung học Kỳ Châu mở. Lúc ấy tôi đã học đến
Đệ Tứ (lớp Chín bây giờ). Tôi
về học ở đây, cách nhà hai ba cây số. Mỗi lần đến trường đều đi ngang qua thánh tịnh
Thanh Quang (thánh tịnh đang xây dựng ở
địa điểm khác hơn nhà bác Hương Ba). Tôi
thường vào đó chơi và nghe kinh. Một
bữa nọ tôi vụt chạy về nhà, gặp ông Hương Chính đón lại hỏi: “Việc gì con chạy?’’
Tôi trả lời: “Thưa
ông, tôi muốn vào chùa để
nghe kinh học đạo nhưng sợ cha tôi vì ông nói con
nít mà tu hành cái gì, chỉ biết học biết làm. Nếu
ông biết được, ông sẽ bắt tôi nghỉ học,
nên tôi thấy cha là bỏ chạy.”
Không biết ông Hương
Chính nói với cha tôi thế nào mà thời gian sau ông bảo: ‘‘Con muốn đi chùa thì
cứ đi.”
Được ông Hương Chính và
cậu Ngân dẫn tấn, tôi nhập môn vào ngày
01-8 Quý Mẹo (Thứ Tư 18-9-1963),
trước khi thánh tịnh
Thanh Quang khánh thành mười tám ngày.
Sau ngày khánh thành thánh
tịnh, tôi bị sốt rét đến
cùng độ, thuốc thang không hết. Tôi nói với cha tôi: “Cha
lên nói với bác Hương Ba xin Bác Tế
Tiên Phương ([8]) cho con uống,
chứ con chịu không nổi.”
Cha tôi nói: “Bác Tế hết gì mà xin!”
Mẹ tôi nói: “Con
nó muốn như vậy thì ông cứ đi.”
Cha tôi đến thánh thất cầu xin, chẳng những không có thuốc mà còn bị Ơn Trên quở qua bốn câu
thánh thi:
Việc gì lại hỏi Lão
Tiên
Bởi
lòng nghi tín không tin phép mầu
Tu
hành trước phải lo âu
Vài hôm sau, ông Lễ
Mười (Lễ Sanh Ngọc Bá Thanh) đến hỏi thăm. Cha
tôi trình bày sự việc và ông khuyên nên cầu nguyện vài hôm, rồi đến xin lại. Quả thật, lần sau cha tôi xin được thuốc và tôi hết bệnh cho đến bây giờ.
Hồi đó, mỗi kỳ thi trung
học chỉ đậu khoảng 25%. Mỗi năm có hai kỳ
thi. Kỳ thứ nhất vào khoảng tháng 6, kỳ
thứ hai vào khoảng tháng 8. Ai
không đậu kỳ một có thể thi kỳ hai.
Tôi đậu kỳ một nhờ học bài tốt. Tôi
học bài đến nỗi ngủ quên trên bàn học, để
quyển tập gần cây đèn. Đèn ngã,
dầu cháy hết mấy tờ giấy. Ngọn lửa liếm vào tay mới biết.
Việc tu hành của tôi
cũng rất tốt. Tôi thường mượn thánh
ngôn, thánh giáo của quý ông ở thánh
thất về chép. Có khi đạo hữu nhờ tôi chép. Tôi
giữ cu cu ([10]) những bài tôi chép
được, thế mà không biết ai mượn rồi làm mất. Tới nay tôi còn tiếc.
Có lần đi học về tôi
nghe dưới hàng tre có tiếng giãy giụa của những con cá sau cơn lụt còn kẹt
lại ở chỗ đất trũng (vì
người ta gánh đất đắp nền nhà). Tôi vào nhà lấy đôi
thùng gánh nước ra bắt chúng nó rồi đem ra sông thả. Buổi
chiều đó gió mát, nước xanh biếc,
sóng vỗ rì rào, tôi lẩm nhẩm đọc bài kinh cầu nguyện
Phước Thiện,([11]) xong rồi thả cá xuống. Thật là thú vị khi
thấy các con cá bơi tới bơi lui, lặn lên lặn xuống không chịu bơi xa, mặc dù
mặt nước sông Thu Bồn rất rộng. Có lẽ chúng bày tỏ một lời cảm ơn chân thành
nhất đối với tôi.
Ngày 19-8
Quý Mão (Chủ Nhật 06-10-1963) khánh thành thánh
tịnh Thanh Quang. Tối đó có đàn cơ,
tôi trộm vào hầu đàn. Bài thánh giáo tôi còn nhớ rõ:
Cái công cái tội đã bù xong
Thiên
hạ đang chờ một lối thông
Cổ
với kim đừng cho phải lệch
Phật
Trời ban phước phải nơi lòng.
Hay:
Giữa cơ đạo bâng
khuâng bất nhứt
Giữa
lòng người tiêu cực ngược xuôi
Chợ
đời chưng dọn đủ mùi
Ai
tham danh lợi mê vui bể trần
Cơ khảo thí có
phần gay gắt
Quỷ
ma toan dẫn dắt lộn đường
Mặc
lòng như ngựa không cương
Pháp
quyền buông thả không tường trắng
đen
Mà nơi đây vườn sen chớm
nở
Còn
là đà chưa vượt lên cao
Ơn Thầy thưởng chút
công lao
Gắng thêm lên nữa sẽ vào Long Hoa.
Hay:
Toàn cả Thiên ân cả
đạo mầu
Nương nhờ quyền pháp hãy bình an
Sống còn giữ trọn nhơn và
nghĩa
Tu học để rồi độ thế gian.
Sau khi đậu trung
học đệ nhất cấp, tôi ra Đà Nẵng học tiếp. Học phí
cũng do ông anh đài thọ như cũ, còn ở thì nhờ nhà bác bà con trong họ, có
tính cách gởi gạo (có gì ăn nấy). Hằng
tuần mỗi chiều Thứ Bảy tôi đạp xe về nhà, và
chiều Chủ Nhật đạp xe chở gạo ra. Tội nghiệp cho dì tôi,
lần nào cũng đến phụ xay lúa, giã gạo, sàng sảy để kịp có gạo
cho tôi chở đi. Nhiều lần không làm
kịp hoặc hết lúa không có gạo chở đi, tôi rất buồn bởi vì
kiếm được cái chữ đối với tôi rất khó. Mỗi bữa ăn có mặt thì ăn,
không có thì thôi, cho nên có lần tôi
phải chịu đói. Tuổi trẻ sáng trưa không ăn
nên có lúc tôi đói xỉu, phải qua nhà kế bên
nằm luôn, đành nghỉ học một buổi.
Nhà bác tôi chật và
buổi chiều bán sữa đậu nành tới 11 giờ đêm. Tôi dọn dẹp rồi bác mới đi ngủ. Đợi bác say giấc,
tôi mới trải chiếu dưới hiên nhà để ngủ. Rồi có lần ngồi học bị bác rầy: “Vặn cái đèn cháy lớn, hết dầu.” Tôi
buồn và lo, vì sợ mích lòng, bác không cho ở thì biết ở đâu. Ai
đời cái đèn trứng vịt thì có sáng là bao mà
phải hạn chế. Nên từng đêm tôi ra
ngồi dưới gốc trụ điện, nhờ ánh sáng mà học.
Năm Giáp Thìn (1964) lụt lớn, mùa màng mất hết, nhà
sụp cây trôi, súc vật chết ngổn ngang. Tôi đi bộ về nhà (cách Đà Nẵng khoảng ba
mươi cây số) cùng với một số người bạn khác, men theo lộ giới đường rầy xe lửa.
Nhờ biết lội nên đoạn đường nào sạt lở chỉ có nước mênh mông thì chúng tôi lội
bơi qua.
Đi từ 6 giờ sáng đến 2 giờ chiều mới tới ga Kỳ Lam. Từ
ga về nhà tôi phải đi thêm một khoảng đường độ tám trăm mét. Cả nhà hoảng hốt
vì nước trong nhà cao đến một mét. Rất may là cả nhà bình yên.
Sau đó nước từ từ rút ra, để lại một lớp bùn dày
khoảng nửa mét. Nhà cửa, cây cối, đường sá chỉ thấy toàn là bùn. Tất cả người
dân đều lo dọn dẹp, làm sạch bùn trong nhà, ngoài vườn, rồi sau mới đến đường
xá.
Khi nước rút ra hết (chảy ra sông ra biển, người dân
gọi là nước giựt) thì những trận mưa to hạt làm cho bùn tan ra và chảy đi, gọi
là mưa dội bùn. Thời gian khá lâu mới hết.
Nghe nói trong trận lụt này những người ở vùng cao và
ven sông chết rất nhiều, nhà cửa súc vật trôi ra biển vô số. Tôi nghe kể
lại, có gia đình cả nhà ngồi trong nhà
thay phiên nhau kêu cứu khi nước cuốn cả nhà đi,
nhưng chẳng ai dám ra cứu vì nước lớn và chảy xiết, nên đành để
gia đình đó trôi ra biển cả.([12])
Vịt heo gà chới với
lẫn trâu bò
Dòng nước bạc đưa người về tử lộ.
Sau trận lụt,
súc vật chết nằm la liệt, bốc lên mùi hôi thối
khó tả. Đúng như câu thánh giáo mà đầu năm Ơn
Trên đã dạy tại Trung Hưng Bửu Tòa:
Nên ghi nhớ thu sang
đông lại
Khắp đó đây như bãi trường sa.
Từ các tỉnh trong Nam,
đặc biệt là sinh viên Quảng Nam ở Sài Gòn, khởi xướng chương trình về miền Trung cứu trợ. Họ
đến nơi dọn vệ sinh, giúp đỡ gạo, mì ăn
liền, thuốc men, áo quần, mền, chiếu... Sau đó nhiều phái đoàn
cứu trợ quốc tế vào cuộc.
Trường Sao Mai là tư
thục của người Công Giáo. Họ
cũng giảm học phí cho những học sinh nghèo ở thôn quê bị
lụt có xác nhận của chính quyền. Tôi làm đơn gởi vào được giảm 20%. Thấy
ít quá, tôi sửa 40%. Lên
Văn Phòng họ không chịu vì
thấy ai cũng 20% và chữ tôi sửa. Tôi nói chữ sửa
là của thầy hiệu trưởng. Thầy hiệu trưởng (linh mục Giuese Lê Văn
Ấn) tình cờ đi ngang qua nghe vậy, bảo tôi vào văn phòng thầy.([13])
Sau khi xem xét đơn
thầy nói: “Xét giảm ở đơn này là thầy Huỳnh (phó hiệu
trưởng) chứ không phải thầy.
Mà thầy Huỳnh chỉ cho
giảm 20% thôi.”
Tôi đáp: “Thưa thầy, thú thật nhà con khổ quá.
Không biết tháng sau còn tiền đóng học phí nữa không, nên con tự động sửa. Mong thầy thứ lỗi cho con cho học
hết tháng này.”
Thầy hỏi quê tôi và
hoàn cảnh rồi viết trong đơn: “Từ nay trở đi trò Công được
giảm 50% học phí.”
Tôi thực sự rất mừng và từ đó về sau tôi chỉ đóng học phí phân nửa. Nhờ
học phí đóng phân nửa nên tôi có phần thư thả.
Hằng ngày, tôi ăn cơm
tại quán cơm từ thiện do Hội Khuyến Học Đà Nẵng mở ở đường
Độc Lập (nay là đường Trần Phú). Thức ăn thì mình trả tiền, còn gạo và người
phục vụ thì Hội Khuyến Học lo. Muốn
ăn phải có thẻ học sinh và mua phiếu trước. Đến giờ quy định thì
đưa phiếu, lấy một mâm cơm cá nhân ra ăn. Cơm và nước mắm tự do, hễ
hết thì lấy thêm. Cũng có anh em hoàn
cảnh như tôi, hai đứa mua chung một
phiếu, lợi dụng lấy cơm và nước mắm ra ăn. Nhờ
gạo ngon nên dẫu ăn cơm với nước mắm vẫn thấy ngon. Ở nhà quê mà được như thế
cũng phúc lắm rồi.
Có lần tôi bị giám
thị hỏi: “Tại sao hai cậu chỉ có mua một phiếu mà hai người ăn?
Ở đây không có tiêu chuẩn
đó.” Chúng tôi năn nỉ, trình bày hoàn cảnh
lụt lội ở thôn quê. Giám
thị thông cảm và đôi khi còn đem thức ăn cho chúng
tôi nữa.
Dù cố gắng nhưng kỳ
thi tú tài thứ nhất tôi không đậu. Nghe lời của anh Dương Văn Long,
tôi cùng anh Phan Minh Khóa và Trần Văn Thức lên
bãi cát ở ngã ba Cai Lang (bây giờ đối diện công viên 29 Tháng 3) cất một cái nhà mà vật liệu do anh Long cung cấp,
chở từ quê ra, để bốn anh em đồng học
quyết đạt cho được bảng vàng kỳ thi thứ hai. Nhưng kỳ thi tú tài
này ban B (toán) quá khó, tôi và anh Khóa
hỏng, anh Thức và anh Long học Ban C (văn) đậu. Tôi
mất đức tin vào lá thăm Khổng Minh, xin ở thánh tịnh
Thanh Quang:
Cửa Trời treo bảng đề
danh
Còn treo giá học, còn dành phần Tiên
Âm vang ngựa thét ven
miền
Thu sang ào ạt tiếng truyền lộc
minh.
Tôi buồn và học nhiều
quá nên sinh bệnh, được bạn bè chở vào bệnh viện Đà Nẵng,
nằm khu nhà thương thí để chữa trị. Nhà
thương thí chữa trị không lấy tiền. Trong lúc đang nằm ở đó thì được tin báo tôi và anh Khóa đồng đỗ tú
tài đặc biệt kỳ này vì nhà nước ưu tiên vớt thêm một điểm cho thí sinh ở
vùng bị lũ lụt. Tự dưng tôi thấy khỏe.
Ở quê lúc bấy giờ đỗ trung
học cũng hiếm chứ đừng nói gì đến đỗ tú tài. Tội nghiệp chú
Hương Luyện nhà kế bên, khi nghe tin tôi đỗ
đạt, chú không nhịn
đựng sự vui mừng mà la lên cả xóm đều biết: “Thằng
Công đỗ tú tài rồi, bà con ơi!” Vì
vậy, khi tôi nằm bệnh viện,
nhiều người âm thầm giúp cho cha mẹ tôi có tiền đóng viện phí, ra
vào nuôi nấng cho tôi qua cơn bệnh ngặt nghèo.
Nhiều người đến thăm
và bàn với cha mẹ tôi: “Cháu đã đỗ tú tài.
Anh chị nên chạy chữa lo
cho cháu, sau này mà nhờ.”
Cha tôi về quê mấy
hôm sau ra lại và tôi được chuyển xuống khu nhà thương hạng (có lấy tiền). Ở nhà thương hạng thuốc men đầy đủ,
song ăn uống thì mình tự lo. Còn ở
nhà thương thí thì có các hội từ thiện tài trợ nên
được ăn uống miễn phí. Tôi nằm ở đó gần ba
tháng, chủ yếu là bạn bè đến thăm.
Tôi nhớ có một
lần vào buổi chiều ngày 16-8, tôi nghe tiếng gọi: “Anh Đỗ Phú Công nằm ở đâu? Có người đến thăm.” Tôi lật đật ngồi dậy và y tá chỉ vào hai chị mặc áo dài trắng đang đi đến. Hai chị hỏi: “Em là Đỗ Phú Công hả?”
Tôi dạ. Mẹ tôi hỏi: “Xin lỗi các chị ở đâu mà
tôi không biết.”
“Vâng, tôi ở Cơ Quan Nữ Phái Hội
Thánh Truyền Giáo Cao Đài. Ngày hôm qua Vía Đức Mẹ, được tin em Công bệnh, các chị cử chúng tôi đến
thăm.”
Sau này mới biết đó là chị Trần Thị Phúc và chị Trần Thị Lộc, đều tu giải thoát ở Hội Thánh.
Còn
một kỷ niệm đáng nhớ khác trong đời tôi. Lúc ở
bệnh viện thì có một cô bạn đến thăm người thân, đồng cảm với hoàn cảnh nên
thường lui tới giúp đỡ tôi. Tôi đón nhận và chịu
ơn người này. Trong lúc
không ai nương tựa, có người giúp là
điều vô cùng quý. Khi vào Sài Gòn,
tôi bệnh nằm ở bệnh viện Chợ Rẫy, cô
cũng từ Đà Nẵng vào thăm, và
kỳ đau thập tử nhất sinh cũng có cô vào thánh thất
Trung Hiền để thăm. Cô nhỏ hơn tôi một tuổi, ngoại hình đẹp,
sao chẳng nghe nói gì đến việc thành lập gia đình. Khi ở Đà Nẵng, về
tình cảm thì tôi chẳng quan tâm, chỉ lo học và thường
mặc cảm cho hoàn cảnh.
Có lần thầy giáo giới
thiệu tôi đi kèm học sinh lớp đệ Tứ (dưới tôi hai lớp) là cô Nguyễn Thị Thuận ở đường Tú Xương, con
gái của Phó Thị Trưởng Đà Nẵng. Gia đình cô giàu có, đối
đãi với tôi quá tử tế. Trước khi dạy,
tôi được ăn cơm với cô ta một
bữa ăn thịnh soạn. Khi học thì phòng ốc,
nước uống nói chung là đầy đủ tiện nghi. Tôi dạy được
một tháng thì nói với thầy xin được nghỉ
dạy vì cô đẹp mà ở trên lầu cao chỉ có tôi và cô, sợ
mình không làm chủ được, mất danh dự của thầy.
Khi ra Đà Nẵng
tôi ít đến Hội Thánh vì không quen người nào ở đó. Một bữa nọ,
anh Trần Văn Thức (cùng học ở quê với tôi) chỉ
anh Dương Văn Long đang ngồi uống nước ngoài cổng trường Sao Mai cách tôi
khoảng ba mét, nói: “Thằng đó cũng đạo Cao Đài
với mình.” Sau đó, anh Dương Văn Long
đến rủ tôi về Hội Thánh hằng tuần vào sáng Chủ Nhật.
Từ đó, tôi mới quen với môi trường sinh hoạt và trở thành
ủy viên Chi Đoàn Thanh Niên Hưng Đạo Đại Đồng Xã (do anh Trương Công
Bán làm chi đoàn trưởng)
cho đến khi vào Sài Gòn.
THƯỢNG CÔNG THANH
([8]) Bác
Tế Tiên Phương博濟仙方 (Thuốc tiên cứu độ rộng khắp) do Đức Lữ
Tổ (Lữ Động Tân) ban cho. Thời xưa, ở Quảng Ngãi, có Giáo Hữu Phổ Thông Nguyễn
Chơn Long (Cơ Quan Truyền Giáo Cao Đài) dịch Bác Tế Tiên Phương ra quốc ngữ. Về sau tiền bối đổi tên là Nguyễn
Minh Đạo, dạy học tại trường trung học Hưng Đạo, và trường Nguyễn Dục ở Tam Kỳ.
([12]) Trong nạn lụt
năm 1964 ở Quảng Nam , theo
Sở Nông nghiệp tỉnh Quảng Nam
thì có khoảng sáu ngàn người chết. Theo nhà thơ Tường Linh (tên khai sinh
Nguyễn Linh, sinh ngày 12-12-1931 tại làng Trung Phước, huyện Quế Sơn, nay là
Quế Trung, Nông Sơn, Quảng Nam) thì có khoảng bốn ngàn người chết. Về nạn lụt
năm Thìn này, Tường Linh viết bài thơ có đoạn:
Không còn gì nữa cả
Không còn gì nữa
cả em ơi!
Một tháng quê
hương không bóng mặt trời
Một tháng quê
hương mưa gào gió thét
Đất Quảng thân
yêu người người rên xiết
Sáu mươi năm lại
đến họa năm Thìn
Thảm nạn này biết
thuở nào quên!
([13]) Linh mục Giuse Lê Văn Ấn
sinh tại quận Bồng Sơn, tỉnh Bình Định (1916). Qua Rôma du học (1938). Được
truyền chức linh mục (1944), tốt nghiệp tiến sĩ Thần Học tại Rôma. Sau đó tốt
nghiệp cử nhân Xã Hội Học ở Pháp và qua Anh nghiên cứu một năm. Về nước (1948),
làm cha sở giáo xứ An Ngãi (Quảng Nam ). Thăng chức chánh xứ Đà Nẵng,
và hạt trưởng Đà Nẵng (1956). Sáng lập và làm hiệu trưởng trường trung học tư
thục Sao Mai (1963) là một trong những trường lớn ở Đà Nẵng. Được tấn phong
giám mục tại nhà thờ chánh tòa Đà Nẵng (09-01-1966), chấp chánh giáo phận Xuân
Lộc mới thành lập (13-01-1966) cho tới khi về với Chúa (1974).