MỘT “SỰ
NGHIỆP” CỦA ĐỜI TÔI
Sa môn THÍCH
THIỆN HOA
I.
NGUYÊN NHÂN
Hoài bão một “cái mộng” trên hai mươi lăm năm mới
hoàn toàn thực hiện.
Trong lúc du học ở Xuân Kinh (1938),([1]) đến mùa hè năm
1941, tôi được dịp may dự thính lớp giáo lý của đoàn thanh niên Đức Dục trong
một tháng (mỗi đêm giảng hai giờ), do bác sĩ Lê Đình Thám [1897-1969] đảm trách
(lớp này hiện nay [1965] còn Thượng Tọa Thích Minh Châu [1918-2012] và đạo hữu
Võ Đình Cường [1918-2008], v.v...). Tôi thích thú quá vì thấy bác sĩ đem phương
pháp giảng giải của Tây phương mà giải thích, trình bày một triết lý cao siêu
của Đông phương. Sự phối hợp cả Âu và Á làm cho người nghe rất thích thú vì
hiểu được triết lý cao siêu của Đông phương qua phương pháp trình bày rõ ràng
rành mạch của Tây phương.
Từ đó tôi hoài bão một cái mộng: Làm sao, sau này mình sẽ đóng một “cây thang giáo lý” (tức là bộ Phật Học Phổ Thông ngày hôm nay).
II.
SƯU TẦM TÀI LIỆU
Từ đó, tôi bắt đầu gom góp, sưu tầm các tài liệu. Đọc
trong kinh, xem trong sách, hoặc nghe những bài giảng nào có thể làm tài liệu
đóng cây thang giáo lý, thì tôi đều góp nhặt để dành cả, nhứt là tài liệu của
bác sĩ Lê Đình Thám (pháp danh Tâm Minh) giảng cho lớp thanh niên Đức Dục.
III.
THỜI GIAN TẬP SỰ
Đến năm 1945, sau khi tốt nghiệp chương trình Phật
pháp, tôi trở về Nam, mở trường dạy giáo lý tại chùa Phật Quang xứ Bang Chang,
quận Trà Ôn [bấy giờ thuộc tỉnh Cần Thơ]. Số tăng ni đến học trên ba mươi vị
(trong số này hiện nay còn lại bên tăng, thầy Thanh Từ, v.v...; bên ni, ni cô
Trí Định, v.v…).
Ngoài lớp giáo lý, chúng tôi còn mở các lớp học quốc
ngữ mỗi buổi sáng, để dạy cho các em ở trong làng, số học sinh gần một trăm năm
mươi em; dạy lớp Bình Dân Học Vụ (…) để giúp cho đồng bào mù chữ trong những
buổi tối; và mở trạm y tế giúp cho đồng bào bệnh hoạn trong làng.
Muốn làm việc lớn, trước phải làm việc nhỏ, muốn đi
xa trước phải từ nơi gần. Nhơn có lớp giáo lý, số học chúng trên ba mươi vị,
tôi bắt đầu tập sự, đem thí nghiệm chương trình Phật Học Phổ Thông (thang giáo
lý) mà chúng tôi đã ôm ấp cái mộng từ lâu, để chờ cơ hội tốt, một hoàn cảnh
rộng rãi hơn, sẽ đem ra thực hiện (thời gian tập sự, chờ đợi gần tám năm
trường).
Trước nhất, tôi soạn từng dàn bài, rồi đem ra giảng
dạy cho học chúng. Tôi bắt họ ký chú kỹ lưỡng. Sau khi giảng xong, tôi bảo họ
làm bài đem tôi sửa, rồi viết lại thành từng tập sách nhỏ để cho tín đồ mượn
xem, như quyển Đạo Phật, Tam Quy, Ngũ Giới, Tứ Nhiếp Pháp, Lục Độ, v.v...
IV.
THỜI GIAN THỰC HIỆN
Đến năm 1952, đường giao thông được dễ dàng, tôi được
các bạn đồng song - Thượng Tọa Thích Thiện Hòa (Giám Đốc
Phật Học Đường Nam Việt), Thượng Tọa Thích Nhựt Liên (Tổng Thơ Ký Giáo Hội Tăng
Già Nam Việt) và Thượng Tọa Thích Quảng Minh (Hội Trưởng Hội Phật Học Nam Việt)
- đến thăm và mời tôi về Sài Gòn để chung lo Phật sự.
Quý thượng tọa khuyên tôi rằng: “Cái đèn treo trên
cao, thế nào yếng sáng [ánh sáng] cũng chiếu xa hơn.”
Vì nguyện vọng hoằng dương chánh pháp, vì muốn thống
nhất Phật sự và vì tình bạn xa cách nhau trên tám năm trường muốn sum hiệp, nên
tôi hoan hỷ nhận lời. Từ đây, tôi bắt đầu thu xếp mọi công việc, để chờ ngày
lên đường.
Đầu năm 1953, sau Tết Nguyên Đán, ngày mồng 8 tháng
Giêng, tám thầy trò chúng tôi quảy hành lý lên đường... Đến Sài Gòn vào chùa Ấn
Quang, sau khi thu xếp chỗ ăn ở tạm xong, quý thầy giao phó cho tôi hai gánh
nặng, là giáo dục và hoằng pháp (vừa làm Trưởng Ban Giáo Dục Giáo Hội Tăng Già
Nam Việt kiêm Đốc Giáo Phật Học Đường Nam Việt và vừa làm Trưởng Ban Hoằng Pháp
Giáo Hội Tăng Già Nam Việt). Rồi quý thầy đua nhau xuất dương [ra nước ngoài].
Suốt một thời gian, trên mười năm trường, đông xông
tây đụt, cả ngày chỉ lo dạy học, diễn giảng rồi huấn luyện cán bộ trụ trì và
giảng viên, hết khóa Hạ đến khóa Đông, con người tôi như con vụ.
Mặc dù công việc quá bận rộn, nhưng cái chí nguyện
đóng cây thang giáo lý đã ôm ấp từ lâu, tôi không hề xao lãng. Ban ngày dạy
học, ban đêm soạn bài, dịch kinh. Hết giờ dạy cho tăng ni ở các học đường, rồi
đến dạy cho lớp Như Lai sứ giả và cư sĩ. Ngoài ra còn làm các Phật sự khác,
việc Giáo Hội, việc lễ lược, tổ chức, thù tạc, v.v… Một ngày đêm, chúng tôi làm
việc thẳng thét bốn buổi (sáng, chiều, tối, và khuya).
Mỗi tuần, tối Thứ Tư hoặc là tối Thứ Năm, tôi mở lớp
dạy giáo lý tại chùa Ấn Quang (Phật Học Đường Nam Việt) rồi đến chùa Phước Hòa
(trụ sở của Hội Phật Học Nam Việt) để dạy Phật pháp cho quý Phật tử cư sĩ, tức
là lớp Phật Học Phổ Thông. Tôi bắt đầu thực hiện “cái mộng” này vào năm 1953.
Soạn từng bài, đem ra dạy, rút kinh nghiệm rồi chúng
tôi mới viết kỹ lại thành tập. Đúng mười bài làm một khóa học.
Mỗi năm chúng tôi mở hai khóa hoặc ba khóa (trừ hai
năm 1963 và 1964 gặp lúc pháp nạn nên không mở khóa học giáo lý được). Ngoài
chương trình Phật Học Phổ Thông, chúng tôi còn dạy Bản Đồ Tu Phật (Phật Học
Cương Yếu, Mười Tôn Phái) và Duy Thức Học, v.v...
Sau khi rút kinh nghiệm bản thân, từ phương pháp dạy
(nghệ thuật trình bày) và bài vở được tu chỉnh rồi in thành tập, chúng tôi mở
khóa huấn luyện cho các cán bộ diễn giảng, mỗi khóa mười bài. Sau khi huấn
luyện chu đáo, nắm chắc kết quả, chúng tôi mới cử quý vị giảng viên đi giảng
các Tỉnh Hội Phật Học, mỗi nơi mười đêm, rồi trở về thụ huấn mười bài khác. Như
thế, chúng tôi cử các vị đi mỗi năm ba kỳ, sau những ngày nghỉ học tại Phật Học
Đường Nam Việt (mỗi năm nghỉ học ba kỳ, mỗi kỳ một tháng).
Khóa giảng được kết quả tốt đẹp, thính giả mỗi ngày
mỗi đông, nên giảng viên thêm hào hứng và rút tỉa nhiều kinh nghiệm. Nhờ thế,
giảng viên tiến đến mức chuyên môn, cầm được nghệ thuật diễn giảng, giảng rất
hấp dẫn. Người nghe cũng thích thú. Nhờ thế, chúng tôi gây được phong trào học
giáo lý từ Đô Thành [Sài Gòn] đến các tỉnh, trong mấy năm vừa qua ở miền Nam .
Cứ theo cái đà này mà tiến, hết khóa thứ nhất đến khóa
thứ hai, rồi tiếp đến khóa thứ ba và thứ tư, v.v... Bắt đầu từ năm 1953 đến nay
[1965] là mười ba năm, tôi đã hoàn thành được mười hai nấc thang giáo lý; nghĩa
là mười hai khóa Phật Học Phổ Thông. Nếu cộng với năm năm hoài bão cái mộng
trên, và thời gian tập sự tám năm, tất cả là hai mươi lăm năm trọn.
V. NỘI
DUNG
Trong thời gian trên, ngoài bộ Phật Học Phổ Thông (mười hai tập), chúng tôi còn soạn bộ Bản Đồ Tu Phật (mười tập), Duy Thức Học (sáu tập) và các loại sách
khác, như Bài Học Ngàn Vàng, v.v... Tất
cả là mười loại, gần tám mươi thứ.
Nội dung bộ Phật
Học Phổ Thông chia làm mười hai khóa:
Từ khóa I đến khóa IV nói về Ngũ Thừa Phật Giáo và
những vấn đề cần biết như nhơn quả luân hồi, v.v...
Khóa V, năm bài đầu nói về lịch sử truyền bá Phật Giáo
từ Ấn Độ sang Trung Hoa đến Việt Nam và các nước Phật Giáo; ba bài tiếp nói về đại
cương Phật Giáo (mười tôn phái); hai bài sau nói về nhơn sanh và vũ trụ là hai
vấn đề rất quan trọng.
Khóa thứ VI và VII là Đại Cương Kinh Lăng Nghiêm. Khóa
thứ VIII là Kinh Viên Giác. Hai bộ kinh này thuộc về Tánh Tôn và được ca tụng
nhiều nhứt trong thiền môn.
Khóa thứ IX là Duy Thức Học (…).
Khóa thứ X và XI là Luận Đại Thừa Khởi Tín (một bộ
luận có tiếng tăm trong Phật Giáo), Duy Thức Học, và Luận Khởi Tín (thuộc về Tướng
Tôn).
Thế là từ khóa I đến khóa XI, có thể giúp cho độc giả
hiểu được căn bản giáo lý là Ngũ Thừa Phật Giáo, Tánh Tôn, và Tướng Tôn, cùng
những vấn đề quan trọng trong Phật Giáo.
Đến khóa thứ XII là Kinh Kim Cang Bát Nhã và Tâm Kinh,
(thuộc về Tánh Không Tôn) để giúp cho hành giả muốn lên cao phải cởi mở, rũ bỏ
những gì nặng nề đã mang từ lâu.
Chúng tôi chia ra mười hai khóa, từ thấp đến cao giúp
cho quý Phật tử dễ học, cũng như cây thang có mười hai nấc để cho người dễ leo.
VI.
LỢI ÍCH
Bộ Phật Học Phổ
Thông và các loại sách Phật Học Tùng Thư của chúng tôi từ khi được phổ biến
đến nay, đã đem lại các lợi ích như sau:
1. Truyền bá giáo lý được sâu rộng trong quần chúng.
2. Giúp cho rất nhiều Phật tử hiểu biết Phật pháp để
tu hành.
3. Giúp cho tăng, ni các Phật Học Viện mau hiểu giáo
lý.
4. Giúp tài liệu cho quý giảng sư và giáo sư để giảng
dạy giáo lý.
VII.
NHỮNG YẾU TỐ ĐỂ THÀNH CÔNG TRONG VIỆC SÁNG TÁC VÀ PHIÊN DỊCH
1. KHẢ NĂNG
Muốn làm công việc gì trước tiên cần phải có đủ khả
năng về công việc ấy. Như người muốn sáng tác và phiên dịch giáo lý, tất nhiên
phải có đủ khả năng về việc này, phải có một học lực khá, cả nội điển lẫn ngoại
điển, tương đương với công việc, mới có thể làm được.
2. BỀN CHÍ
Bền chí là một yếu tố cần nhứt trong mọi công việc,
nhứt là việc sáng tác và phiên dịch. Công việc này đòi hỏi rất nhiều sự cần cù,
rị mọ, ngồi cặm cụi suốt ngày đêm trên bàn viết, từ tháng này đến năm nọ. Người
không bền chí, không thể đeo đuổi được lâu dài. Nếu chỉ do hứng thú nhứt thời,
thì chỉ viết hoặc dịch được một vài quyển mà thôi.
3. SỨC KHỎE
Sức khỏe cũng là một yếu tố cần thiết trong mọi công
việc. Nếu làm việc gì mà thiếu sức khỏe thì khó thành công mỹ mãn. Sức khỏe
kém, cố nhiên thân thể mỏi mệt, tinh thần bì quyện,([2]) không minh mẫn
sáng suốt, không thể ngồi lâu để phiên dịch hoặc sáng tác.
4. THÍCH THÚ
Làm công việc gì, mặc dù có khả năng, sức khỏe và bền
chí, nhưng nếu không thấy thích thú thì cũng khó mà thành tựu, nhứt là việc
phiên dịch và sáng tác. Có cảm thấy thích thú, mới vượt qua được sự khó khăn
cực khổ, mài miệt nơi bàn viết ngày đêm không chán.
Người sáng tác hoặc phiên dịch, khi thực hiện được
một tác phẩm nào, tự cảm thấy vui mừng và thích thú, không khác gì anh nghèo
cất được cái nhà mới. Phải có thích thú như thế mới làm được việc này.
5. TIÊU CHUẨN PHIÊN DỊCH VÀ SÁNG TÁC
Người xưa nói: Văn
tức là người.([3]) Đúng như thế. Người tánh tình như
thế nào, thì viết văn cũng như thế ấy.
Viết văn hay diễn giảng ai cũng muốn cho nhiều người
đọc và dễ hiểu. Nhưng trái lại, khi viết hay giảng, nhiều người muốn nói thật
cao siêu khó khăn, làm cho người đọc và nghe phải mệt trí. Như thế không khác
gì người muốn đi tới mà hai chân lại bước lui. Thật ra, điều đó là do ảnh hưởng
tánh tình, cũng khó mà thay đổi.
Chúng tôi nhắm vào ba tiêu chuẩn: khoa học (rõ ràng thứ lớp); đại chúng (phổ thông, bình dân); và dân tộc (sắc thái Việt Nam ), nên những
kinh sách, mặc dù khó đến đâu, qua sự phiên dịch hoặc sáng tác của chúng tôi,
cũng đều làm cho người đọc được dễ hiểu và rõ ràng.
Theo sự kinh nghiệm của chúng tôi trên mười năm nay
về việc trước tác và phiên dịch, nếu tác phẩm nào thiếu ba tiêu chuẩn trên (khoa
học, đại chúng và dân tộc) thì khó có thể phổ biến sâu rộng trong quảng đại
quần chúng.
6. TẠO HOÀN CẢNH THÍCH HỢP
Hoàn cảnh là một trong những yếu tố quan trọng quyết
định sự thành công hay thất bại. Chúng ta nên hay hư, giỏi hay dở, đa số đều do
ảnh hưởng hoàn cảnh tốt hay xấu. Chúng tôi làm được một vài công tác về phiên
dịch và sáng tác, là do chúng tôi tự tạo ra một hoàn cảnh thuận tiện để nó thúc
đẩy chúng tôi trên công việc này.
Trước nhất, chúng tôi mở ra một lớp học giáo lý hằng
tuần (bắt đầu năm 1953 đến nay, mỗi tuần vào tối Thứ Tư hoặc tối Thứ Năm), và
soạn chương trình giáo lý từ sơ cấp đến cao đẳng. Mỗi tuần tôi soạn một bài
giáo lý để dạy. Và tôi phải nghiên cứu cách dạy (nghệ thuật trình bày), mỗi bài
phải dạy thế nào cho hấp dẫn, người học dễ thâu thập và thích thú. Vì thế mà
người học mỗi ngày mỗi đông và bắt buộc tôi mỗi tuần phải soạn ra một bài để
dạy. Một năm tôi mở hai hoặc ba khóa (trước hạ, giữa hạ, và sau hạ). Nhờ thế mà
bài vở mỗi ngày thêm nhiều và nghệ thuật giảng dạy mỗi ngày càng thêm điêu
luyện.
Sau khi đã có sẵn một số tài liệu về giáo lý, và nắm
chắc kết quả về sự giảng dạy ở trong tay rồi, chúng tôi liền mở ra các lớp huấn
luyện cán bộ: giảng sư, trụ trì và Như Lai sứ giả để huấn luyện về chuyên môn.
Sau khi được huấn luyện thuần thục, nắm chắc sự thành
công trong tay, các vị cán bộ được cử đi các Tỉnh Hội Phật Học mở khóa dạy giáo
lý, mỗi nơi mười đêm. Người học mỗi đêm càng đông. Người dạy mỗi ngày thêm hào
hứng. Nhờ thế mà chúng tôi gây được phong trào học giáo lý trong các năm vừa
qua ở miền Nam .
Không gì thích thú bằng bài mình soạn có người dạy, sách mình viết có người
đọc. Hoàn cảnh này thúc đẩy chúng tôi phải cố gắng biên soạn, để cung ứng nhu
cầu về giáo lý cho quý Phật tử bốn phương.
7. SÁNG KIẾN
Với sáng kiến, công việc của chúng ta dù cũ cũng
thành mới mẻ. Trong khi giảng dịch hay viết, nếu không có một đôi chút sáng
kiến thì người nghe hay đọc cảm thấy khô khan, buồn nản. Trái lại, nếu chúng ta
có sáng kiến thêm vào, thì người đọc cảm thấy như thưởng thức được vài phần
hương vị mới lạ. Chúng tôi xin dẫn một vài bằng chứng điển hình:
Bộ Đại Thừa Bá Pháp
Minh Môn là một bộ luận đã có từ nghìn xưa, người đọc rất khó hiểu. Nhưng
chúng tôi có sáng kiến, căn cứ vào đó, sáng tác quyển Tu Tâm, làm cho người đọc dễ hiểu và thích thú.
Kinh Lăng Nghiêm đã có mấy nhà
dịch ra chữ Việt, nhưng bản dịch của chúng tôi vì có đôi phần sáng kiến và sáng
tác, nên được nhiều người thích đọc, vì rõ ràng và dễ hiểu.
Bởi thế nên sáng kiến không những rất cần trong việc
phiên dịch và sáng tác, mà còn rất cần trong mọi công việc và mọi hoàn cảnh.
8. KẾ HOẠCH VÀ TỔ CHỨC
Phàm làm việc gì có kế hoạch và biết tổ chức thì công
việc mới thành tựu dễ dàng. Trên đoạn thứ sáu nói về hoàn cảnh, chúng tôi đã
nói một vài khía cạnh về sự tổ chức việc làm của chúng tôi. Đến đây chúng tôi
nói rõ thêm, để giúp ích phần nào cho những người bạn muốn đi theo con đường
của chúng tôi.
Theo đúng kế hoạch và tổ chức, chúng tôi chia công việc
ra làm ba phần như sau: biên soạn, xuất bản, và phổ biến (phát hành).
a. Phần biên soạn và phiên dịch:
Chúng tôi lập Phật Học Tùng Thư, chia ra làm mười loại sách sau đây: (1) Kinh, (2)
Luật, (3) Luận, (4) Phật học phổ thông, (5) Bài giảng, (6) Phật học giáo khoa, (7)
Giáo lý dạy gia đình Phật tử, (8) Tạp luận, (9) Sự tích, (10) Kinh tụng (các
nghi thức tụng niệm).
Tất cả 10 loại sách này, gồm tám mươi thứ, phân chia
làm tám bộ:
(1) Bộ Phật Học
Phổ Thông, mười hai khóa (hay cây thang giáo lý mười hai nấc).
(2) Bộ Bản Đồ
Tu Phật, mười tập (Đại cương Phật Giáo: mười tôn phái).
(3) Bộ Duy Thức
Học, sáu quyển (các sách vở chánh tông của Duy Thức).
(4) Phật Học
Giáo Khoa dành cho các trường trung học Bồ Đề từ đệ thất đến đệ nhất [nay
gọi là lớp sáu, lớp mười hai].
(5) Giáo lý dạy gia đình Phật tử (sắp thực hiện).
(6) Nghi Thức
Tụng Niệm (kinh nhựt tụng đại bổn và tiểu bổn, v.v...).
(7) Tám Quyển
Sách Quý, Bài Học Ngàn Vàng, v.v... (tạp luận).
(8) Sự tích.
Các bộ sách này, sắp có thứ tự và theo hệ
thống từ thấp đến cao, từ dễ đến khó, làm cho người đọc dễ hiểu, như cây thang có nhiều
nấc, khiến cho người leo lên cao không khó (muốn rõ hệ thống tổ chức và nội
dung của mỗi bộ sách nói trên, xin quý vị xem quyển Mục Lục Kinh Sách, Hương Đạo xuất bản).
b. Phần xuất bản: Chúng tôi tổ chức một cơ
quan xuất bản gọi là nhà xuất bản Hương
Đạo, để xuất bản kinh sách của chúng tôi phiên dịch và sáng tác từ trước
đến nay.
Từ hai bàn tay trắng, chúng tôi chỉ lấy công làm lời,
lấy lời làm vốn. Ban đầu in từ [từng] quyển sách nhỏ, như Tu Tâm, lần đến các tập Phật Học
Phổ Thông, v.v... Ngoài sự trả tiền in cho nhà in và bút phí, chúng tôi rất
tiện tặn, không dám tiêu xài. Dành dụm cho tới ngày nay, nhà xuất bản Hương Đạo
của chúng tôi được một kho sách gồm tám mươi thứ.
c. Phần phổ biến: Như đoạn trên, trong đoạn
thứ 6 nói về Tạo hoàn cảnh thích hợp,
chúng tôi có nói sơ lược: sau khi đã có sách vở rồi, chúng tôi mở lớp giáo lý
tại Thủ Đô [Sài Gòn] dạy theo chương trình chúng tôi đã soạn. Rồi chúng tôi
huấn luyện cán bộ đi các tỉnh, cũng dạy theo tài liệu nói trên. Ngoài ra, chúng
tôi còn gởi các nhà phát hành kinh sách ở Trung và Nam để họ phổ biến sâu rộng trong
quần chúng. Nhờ thế mà giáo lý được phổ biến và giúp cho sự xuất bản được dễ
dàng và sự phiên dịch sáng tác khỏi bị khủng hoảng.
9. KINH NGHIỆM
Mỗi khi chúng ta làm một việc gì, dù thất bại hay
thành công đều là một bài học cho chúng ta rút kinh nghiệm để làm việc sắp đến.
Về việc sáng tác, phiên dịch, xuất bản, và phổ biến, trên mười năm nay, chúng
tôi rút rất nhiều kinh nghiệm về sự thất bại cũng như thành công. Gặp thành
công, chúng tôi giữ y như thế mà tiến. Gặp thất bại chúng tôi rút kinh nghiệm
để sửa chữa. Mỗi khi ra một quyển sách hay giảng một bài nào, chúng tôi dọ hỏi
dư luận quần chúng, tìm hiểu những phê bình chỉ trích hơn là lời khen ngợi. Nhờ
thế mà chúng tôi gặt hái được những thành quả hôm nay.
10. TRÌNH BÀY TƯ TƯỞNG PHẬT GIÁO ĐÔNG PHƯƠNG QUA
PHƯƠNG PHÁP TÂY PHƯƠNG
Chúng tôi vào chùa từ thuở bé, lo học giáo lý nhà
Phật, chỉ hấp thụ tư tưởng Phật Giáo đông phương. Một duyên may, năm 1941, tôi
được dự thính lớp thanh niên Đức Dục tại Huế, do bác sĩ Lê Đình Thám đảm nhiệm.
Bác sĩ là người rất giỏi về Âu học và cũng rất thâm về Á học. Bác sĩ đem phương
pháp giảng giải của Tây phương mà giảng giải phân tích nền triết học cổ học
Đông phương một cách rõ ràng, rành mạch mà vẫn giữ được phần cao siêu thâm thúy.
Chúng tôi thích thú vô cùng. Mặc dù hấp thụ trong thời gian không lâu, nhưng
một khi hạt giống đã rơi vào tâm điền rồi, từ đó về sau nó sẽ tiến hóa luôn, nứt
mộng nẩy chồi cho đến khi đơm bông kết trái.
Về sự giảng dạy cũng như sự trước tác, phiên dịch của
chúng tôi, người nghe và người đọc được dễ hiểu, rõ ràng và rành mạch là nhờ
chúng tôi áp dụng được đôi phần phương pháp Tây phương.
11. ĐẶT SÁT VẤN ĐỀ
Một vài người bạn đến chơi và thân mật phê bình:
"Thầy không thông minh lắm, chậm chạp và ít sáng kiến, nhưng mỗi khi có
một sáng kiến nào, thì thầy đeo đuổi và làm cho kỳ được. Điều quý nhất là thầy
biết đặt sát vấn đề, biết cân nhắc đắn đo, chọn người chọn việc, đặt đúng chỗ
và dùng đúng thời, nên thành công được nhiều khả quan.”
12. KHÔNG ĐI XA MỤC ĐÍCH
Mỗi khi làm một việc gì, trước nhất chúng tôi tự hỏi:
Mục đích để làm gì? Sau khi hạ thủ
công việc ấy, chúng tôi luôn luôn nhắm mục đích ấy mà tiến, không dám đi lạc
đường. Như việc phiên dịch và sáng tác này, trước khi bắt tay vào việc, chúng
tôi tự vấn lương tâm: Mục đích để làm gì?
Vì danh? Vì lợi? Hay vì hoằng pháp lợi sinh? Sau khi chúng tôi quyết định: Mục đích để phổ biến giáo lý và may ra
có lợi [lãi] phần nào, thì tiếp tục in thêm các kinh sách khác và giúp cho quý
vị cán bộ diễn giảng hay những người đang thiếu thốn chung quanh.
Vì mục đích trên, các năm đầu, mỗi tháng chúng tôi
đều có cúng dường theo bản nguyện. Sau một thời gian thấy quý vị giảng sư được
thành công trong việc diễn giảng, có đủ phương tiện để tự túc, chúng tôi lại
bớt phần cúng dường, xoay lại để làm bút phí cho sự sửa chữa, hay tu chỉnh các
tác phẩm và dịch phẩm đã xuất bản. Đến nay, công việc tu chỉnh và xuất bản, v.v...
vẫn còn tiếp tục.
Nhờ không đi sai mục đích hay bản nguyện, nên chúng
tôi được toại nguyện khá nhiều.
13. BIẾT DÙNG VÀ DÁM DÙNG TIỀN
Đành rằng không tiền thì không làm được việc gì, nhưng
có tiền mà đắn đo rít róng, tiện tặn quá, thì cũng không làm nên việc gì lớn
lao. Lại nữa, có tiền mà không biết dùng tiền, nghĩa là dùng tiền không đúng
chỗ, không hợp thời, thì có tiền chỉ thêm hại mà thôi. Trái lại, dùng tiền
trúng chỗ, hợp thời thì được thành công tốt đẹp.
Xuyên qua các đoạn trên (phần xuất bản và đoạn thứ 12
(Không đi xa mục đích), quý vị thấy
chúng tôi lấy công làm lời, lấy lời làm vốn, rất tiện tặn dành dụm và tích trữ
mới thành một sự nghiệp (một kho sách, mười loại, gồm tám mươi thứ). Mặc dù
chúng tôi tiện tặn, tiết kiệm như vậy, nhưng vì muốn cho thành một sự nghiệp
văn hóa nên với việc đáng dùng như tu chỉnh, sửa chữa lại các bộ sách đã xuất
bản, chúng tôi dám xuất số tiền, có thể nói gần quá sức lo của chúng tôi. Không
sợ tốn kém, miễn sao thành tựu công việc thì thôi. Nhờ thế chúng tôi thâu góp
được kết quả theo ý muốn.
VIII.
GHI ƠN
Kinh chép: Chư pháp tùng duyên sanh. Chính thế, mặc dù chúng tôi đã có chí nguyện
đóng cây thang giáo lý làm chánh nhơn,
nhưng nếu không nhờ các duyên lành,
thì cũng khó mà thành tựu. Vậy hôm nay, công việc mà chúng tôi xem như một “sự nghiệp” của đời tôi, có thể nói
là đã hoàn thành, chúng tôi xin thành tâm ghi đậm công ơn sau đây:
1. Ơn Tam Bảo [Phật, Pháp, Tăng] gia hộ.
2. Ơn quý sư trưởng và thiện hữu tri thức mở mang
kiến thức;
4. Ơn Thượng Tọa Thích Thiện Hòa, Đại Đức Thích
Trường Lạc, v.v... đã soạn giúp một số bài, khi chúng tôi quá bận việc và vui
lòng chiều theo ý muốn, để mặc tình chúng tôi sửa chữa.
5. Ơn đạo hữu Võ Đình Cường đã giúp tôi rất nhiều về
việc tu chỉnh bài vở.
6. Ơn quý Phật tử đến học hằng tuần (từ năm 1953 đến
1962) tạo hoàn cảnh để thúc đẩy chúng tôi sáng tác và thí nghiệm chương trình
giáo lý.
7. Ơn đạo hữu Nhuận Chưởng, Minh Phúc, và ông Dương
Kiều Thi, v.v... đã giúp chúng tôi về việc xuất bản.
IX.
HIẾN GIÁO HỘI (…)
Những tác phẩm hay dịch phẩm của nhà xuất bản Hương
Đạo chúng tôi, sau khi tu chỉnh hoàn toàn, và trả tất nợ nhà in rồi, chúng tôi
sẽ làm lễ hiến cho Giáo Hội (…) hay những người nối theo chí nguyện (phiên dịch
và sáng tác) của chúng tôi.
Những tác phẩm của chúng tôi, đều không giữ bản quyền
đối với quý vị nào muốn ấn tống. Nhưng, nếu ai muốn sửa đổi nội dung hay in để
kiếm lời, thì phải được sự đồng ý của chúng tôi.
X. HỒI
HƯỚNG
Tôi làm được điều lợi ích gì, có bao nhiêu công đức
đều hồi hướng:
Trên đền đáp bốn ơn
Dưới cứu giúp ba loài
Cầu nguyện cho
Mặt trời Phật thêm sáng
Bánh xe pháp xoay hoài
Thế giới đều hòa bình
Nhơn dân được an lạc
Tôi và các chúng sinh
Đều sanh về cõi Phật.
Viết tại
dưỡng đường Đồn Đất, Sài Gòn
Quý Xuân Ất Tỵ
(1965)
Sa môn THÍCH
THIỆN HOA
Nguồn: https://thuvienhoasen.org/a3698/phu-luc-mot-su-nghiep-cua-doi-toi
► Tại thánh tịnh Ngọc Điện Huỳnh Hà, ngày 01-8-1964, Đức
Quan Thánh Đế Quân dạy: Nhìn giáo bạn mà
bì Đại Đạo / Xem chúng nhân mà tạo tín đồ. Tại thánh thất Nam Thành, ngày 17-02-1969,
Đức Lý Giáo Tông nhắc lại lời Đức Gia Tô Giáo Chủ dạy trong một dịp lễ Giáng
Sinh rằng chúng ta chỉ có tâm thức thì
sáng mà ý thức còn u tối. In lại bài viết của danh tăng Việt Nam Thích
Thiện Hoa (1918-1973), Đạo Uyển ước mong và tin rằng những con cái áo trắng
nặng lòng thương Thầy mến Đạo sẽ gẫm suy, thấm thía, và thắp sáng ý thức phổ thông
giáo lý để hoằng khai Đại Đạo.