Thứ Tư, 24 tháng 4, 2019

15 MỘT “SỰ NGHIỆP” CỦA ĐỜI TÔI / Đạo Uyển 30



MỘT “SỰ NGHIỆP” CỦA ĐỜI TÔI
Sa môn THÍCH THIỆN HOA
I. NGUYÊN NHÂN
Hoài bão một “cái mộng” trên hai mươi lăm năm mới hoàn toàn thực hiện.
Trong lúc du học ở Xuân Kinh (1938),([1]) đến mùa hè năm 1941, tôi được dịp may dự thính lớp giáo lý của đoàn thanh niên Đức Dục trong một tháng (mỗi đêm giảng hai giờ), do bác sĩ Lê Đình Thám [1897-1969] đảm trách (lớp này hiện nay [1965] còn Thượng Tọa Thích Minh Châu [1918-2012] và đạo hữu Võ Đình Cường [1918-2008], v.v...). Tôi thích thú quá vì thấy bác sĩ đem phương pháp giảng giải của Tây phương mà giải thích, trình bày một triết lý cao siêu của Đông phương. Sự phối hợp cả Âu và Á làm cho người nghe rất thích thú vì hiểu được triết lý cao siêu của Đông phương qua phương pháp trình bày rõ ràng rành mạch của Tây phương.
Từ đó tôi hoài bão một cái mộng: Làm sao, sau này mình sẽ đóng một “cây thang giáo lý” (tức là bộ Phật Học Phổ Thông ngày hôm nay).
II. SƯU TẦM TÀI LIỆU
Từ đó, tôi bắt đầu gom góp, sưu tầm các tài liệu. Đọc trong kinh, xem trong sách, hoặc nghe những bài giảng nào có thể làm tài liệu đóng cây thang giáo lý, thì tôi đều góp nhặt để dành cả, nhứt là tài liệu của bác sĩ Lê Đình Thám (pháp danh Tâm Minh) giảng cho lớp thanh niên Đức Dục.
III. THỜI GIAN TẬP SỰ
Đến năm 1945, sau khi tốt nghiệp chương trình Phật pháp, tôi trở về Nam, mở trường dạy giáo lý tại chùa Phật Quang xứ Bang Chang, quận Trà Ôn [bấy giờ thuộc tỉnh Cần Thơ]. Số tăng ni đến học trên ba mươi vị (trong số này hiện nay còn lại bên tăng, thầy Thanh Từ, v.v...; bên ni, ni cô Trí Định, v.v…).
Ngoài lớp giáo lý, chúng tôi còn mở các lớp học quốc ngữ mỗi buổi sáng, để dạy cho các em ở trong làng, số học sinh gần một trăm năm mươi em; dạy lớp Bình Dân Học Vụ (…) để giúp cho đồng bào mù chữ trong những buổi tối; và mở trạm y tế giúp cho đồng bào bệnh hoạn trong làng.
Muốn làm việc lớn, trước phải làm việc nhỏ, muốn đi xa trước phải từ nơi gần. Nhơn có lớp giáo lý, số học chúng trên ba mươi vị, tôi bắt đầu tập sự, đem thí nghiệm chương trình Phật Học Phổ Thông (thang giáo lý) mà chúng tôi đã ôm ấp cái mộng từ lâu, để chờ cơ hội tốt, một hoàn cảnh rộng rãi hơn, sẽ đem ra thực hiện (thời gian tập sự, chờ đợi gần tám năm trường).
Trước nhất, tôi soạn từng dàn bài, rồi đem ra giảng dạy cho học chúng. Tôi bắt họ ký chú kỹ lưỡng. Sau khi giảng xong, tôi bảo họ làm bài đem tôi sửa, rồi viết lại thành từng tập sách nhỏ để cho tín đồ mượn xem, như quyển Đạo Phật, Tam Quy, Ngũ Giới, Tứ Nhiếp Pháp, Lục Độ, v.v...
IV. THỜI GIAN THỰC HIỆN
Đến năm 1952, đường giao thông được dễ dàng, tôi được các bạn đồng song - Thượng Tọa Thích Thiện Hòa (Giám Đốc Phật Học Đường Nam Việt), Thượng Tọa Thích Nhựt Liên (Tổng Thơ Ký Giáo Hội Tăng Già Nam Việt) và Thượng Tọa Thích Quảng Minh (Hội Trưởng Hội Phật Học Nam Việt) - đến thăm và mời tôi về Sài Gòn để chung lo Phật sự.
Quý thượng tọa khuyên tôi rằng: “Cái đèn treo trên cao, thế nào yếng sáng [ánh sáng] cũng chiếu xa hơn.”
Vì nguyện vọng hoằng dương chánh pháp, vì muốn thống nhất Phật sự và vì tình bạn xa cách nhau trên tám năm trường muốn sum hiệp, nên tôi hoan hỷ nhận lời. Từ đây, tôi bắt đầu thu xếp mọi công việc, để chờ ngày lên đường.
Đầu năm 1953, sau Tết Nguyên Đán, ngày mồng 8 tháng Giêng, tám thầy trò chúng tôi quảy hành lý lên đường... Đến Sài Gòn vào chùa Ấn Quang, sau khi thu xếp chỗ ăn ở tạm xong, quý thầy giao phó cho tôi hai gánh nặng, là giáo dục và hoằng pháp (vừa làm Trưởng Ban Giáo Dục Giáo Hội Tăng Già Nam Việt kiêm Đốc Giáo Phật Học Đường Nam Việt và vừa làm Trưởng Ban Hoằng Pháp Giáo Hội Tăng Già Nam Việt). Rồi quý thầy đua nhau xuất dương [ra nước ngoài].
Suốt một thời gian, trên mười năm trường, đông xông tây đụt, cả ngày chỉ lo dạy học, diễn giảng rồi huấn luyện cán bộ trụ trì và giảng viên, hết khóa Hạ đến khóa Đông, con người tôi như con vụ.
Mặc dù công việc quá bận rộn, nhưng cái chí nguyện đóng cây thang giáo lý đã ôm ấp từ lâu, tôi không hề xao lãng. Ban ngày dạy học, ban đêm soạn bài, dịch kinh. Hết giờ dạy cho tăng ni ở các học đường, rồi đến dạy cho lớp Như Lai sứ giả và cư sĩ. Ngoài ra còn làm các Phật sự khác, việc Giáo Hội, việc lễ lược, tổ chức, thù tạc, v.v… Một ngày đêm, chúng tôi làm việc thẳng thét bốn buổi (sáng, chiều, tối, và khuya).
Mỗi tuần, tối Thứ Tư hoặc là tối Thứ Năm, tôi mở lớp dạy giáo lý tại chùa Ấn Quang (Phật Học Đường Nam Việt) rồi đến chùa Phước Hòa (trụ sở của Hội Phật Học Nam Việt) để dạy Phật pháp cho quý Phật tử cư sĩ, tức là lớp Phật Học Phổ Thông. Tôi bắt đầu thực hiện “cái mộng” này vào năm 1953.
Soạn từng bài, đem ra dạy, rút kinh nghiệm rồi chúng tôi mới viết kỹ lại thành tập. Đúng mười bài làm một khóa học.
Mỗi năm chúng tôi mở hai khóa hoặc ba khóa (trừ hai năm 1963 và 1964 gặp lúc pháp nạn nên không mở khóa học giáo lý được). Ngoài chương trình Phật Học Phổ Thông, chúng tôi còn dạy Bản Đồ Tu Phật (Phật Học Cương Yếu, Mười Tôn Phái) và Duy Thức Học, v.v...
Sau khi rút kinh nghiệm bản thân, từ phương pháp dạy (nghệ thuật trình bày) và bài vở được tu chỉnh rồi in thành tập, chúng tôi mở khóa huấn luyện cho các cán bộ diễn giảng, mỗi khóa mười bài. Sau khi huấn luyện chu đáo, nắm chắc kết quả, chúng tôi mới cử quý vị giảng viên đi giảng các Tỉnh Hội Phật Học, mỗi nơi mười đêm, rồi trở về thụ huấn mười bài khác. Như thế, chúng tôi cử các vị đi mỗi năm ba kỳ, sau những ngày nghỉ học tại Phật Học Đường Nam Việt (mỗi năm nghỉ học ba kỳ, mỗi kỳ một tháng).
Khóa giảng được kết quả tốt đẹp, thính giả mỗi ngày mỗi đông, nên giảng viên thêm hào hứng và rút tỉa nhiều kinh nghiệm. Nhờ thế, giảng viên tiến đến mức chuyên môn, cầm được nghệ thuật diễn giảng, giảng rất hấp dẫn. Người nghe cũng thích thú. Nhờ thế, chúng tôi gây được phong trào học giáo lý từ Đô Thành [Sài Gòn] đến các tỉnh, trong mấy năm vừa qua ở miền Nam.
Cứ theo cái đà này mà tiến, hết khóa thứ nhất đến khóa thứ hai, rồi tiếp đến khóa thứ ba và thứ tư, v.v... Bắt đầu từ năm 1953 đến nay [1965] là mười ba năm, tôi đã hoàn thành được mười hai nấc thang giáo lý; nghĩa là mười hai khóa Phật Học Phổ Thông. Nếu cộng với năm năm hoài bão cái mộng trên, và thời gian tập sự tám năm, tất cả là hai mươi lăm năm trọn.
V. NỘI DUNG
Trong thời gian trên, ngoài bộ Phật Học Phổ Thông (mười hai tập), chúng tôi còn soạn bộ Bản Đồ Tu Phật (mười tập), Duy Thức Học (sáu tập) và các loại sách khác, như Bài Học Ngàn Vàng, v.v... Tất cả là mười loại, gần tám mươi thứ.
Nội dung bộ Phật Học Phổ Thông chia làm mười hai khóa:
Từ khóa I đến khóa IV nói về Ngũ Thừa Phật Giáo và những vấn đề cần biết như nhơn quả luân hồi, v.v...
Khóa V, năm bài đầu nói về lịch sử truyền bá Phật Giáo từ Ấn Độ sang Trung Hoa đến Việt Nam và các nước Phật Giáo; ba bài tiếp nói về đại cương Phật Giáo (mười tôn phái); hai bài sau nói về nhơn sanh và vũ trụ là hai vấn đề rất quan trọng.
Khóa thứ VI và VII là Đại Cương Kinh Lăng Nghiêm. Khóa thứ VIII là Kinh Viên Giác. Hai bộ kinh này thuộc về Tánh Tôn và được ca tụng nhiều nhứt trong thiền môn.
Khóa thứ IX là Duy Thức Học (…).
Khóa thứ X và XI là Luận Đại Thừa Khởi Tín (một bộ luận có tiếng tăm trong Phật Giáo), Duy Thức Học, và Luận Khởi Tín (thuộc về Tướng Tôn).
Thế là từ khóa I đến khóa XI, có thể giúp cho độc giả hiểu được căn bản giáo lý là Ngũ Thừa Phật Giáo, Tánh Tôn, và Tướng Tôn, cùng những vấn đề quan trọng trong Phật Giáo.
Đến khóa thứ XII là Kinh Kim Cang Bát Nhã và Tâm Kinh, (thuộc về Tánh Không Tôn) để giúp cho hành giả muốn lên cao phải cởi mở, rũ bỏ những gì nặng nề đã mang từ lâu.
Chúng tôi chia ra mười hai khóa, từ thấp đến cao giúp cho quý Phật tử dễ học, cũng như cây thang có mười hai nấc để cho người dễ leo.
VI. LỢI ÍCH
Bộ Phật Học Phổ Thông và các loại sách Phật Học Tùng Thư của chúng tôi từ khi được phổ biến đến nay, đã đem lại các lợi ích như sau:
1. Truyền bá giáo lý được sâu rộng trong quần chúng.
2. Giúp cho rất nhiều Phật tử hiểu biết Phật pháp để tu hành.
3. Giúp cho tăng, ni các Phật Học Viện mau hiểu giáo lý.
4. Giúp tài liệu cho quý giảng sư và giáo sư để giảng dạy giáo lý.
VII. NHỮNG YẾU TỐ ĐỂ THÀNH CÔNG TRONG VIỆC SÁNG TÁC VÀ PHIÊN DỊCH
1. KHẢ NĂNG
Muốn làm công việc gì trước tiên cần phải có đủ khả năng về công việc ấy. Như người muốn sáng tác và phiên dịch giáo lý, tất nhiên phải có đủ khả năng về việc này, phải có một học lực khá, cả nội điển lẫn ngoại điển, tương đương với công việc, mới có thể làm được.
2. BỀN CHÍ
Bền chí là một yếu tố cần nhứt trong mọi công việc, nhứt là việc sáng tác và phiên dịch. Công việc này đòi hỏi rất nhiều sự cần cù, rị mọ, ngồi cặm cụi suốt ngày đêm trên bàn viết, từ tháng này đến năm nọ. Người không bền chí, không thể đeo đuổi được lâu dài. Nếu chỉ do hứng thú nhứt thời, thì chỉ viết hoặc dịch được một vài quyển mà thôi.
3. SỨC KHỎE
Sức khỏe cũng là một yếu tố cần thiết trong mọi công việc. Nếu làm việc gì mà thiếu sức khỏe thì khó thành công mỹ mãn. Sức khỏe kém, cố nhiên thân thể mỏi mệt, tinh thần bì quyện,([2]) không minh mẫn sáng suốt, không thể ngồi lâu để phiên dịch hoặc sáng tác.
4. THÍCH THÚ
Làm công việc gì, mặc dù có khả năng, sức khỏe và bền chí, nhưng nếu không thấy thích thú thì cũng khó mà thành tựu, nhứt là việc phiên dịch và sáng tác. Có cảm thấy thích thú, mới vượt qua được sự khó khăn cực khổ, mài miệt nơi bàn viết ngày đêm không chán.
Người sáng tác hoặc phiên dịch, khi thực hiện được một tác phẩm nào, tự cảm thấy vui mừng và thích thú, không khác gì anh nghèo cất được cái nhà mới. Phải có thích thú như thế mới làm được việc này.
5. TIÊU CHUẨN PHIÊN DỊCH VÀ SÁNG TÁC
Người xưa nói: Văn tức là người.([3]) Đúng như thế. Người tánh tình như thế nào, thì viết văn cũng như thế ấy.
Viết văn hay diễn giảng ai cũng muốn cho nhiều người đọc và dễ hiểu. Nhưng trái lại, khi viết hay giảng, nhiều người muốn nói thật cao siêu khó khăn, làm cho người đọc và nghe phải mệt trí. Như thế không khác gì người muốn đi tới mà hai chân lại bước lui. Thật ra, điều đó là do ảnh hưởng tánh tình, cũng khó mà thay đổi.
Chúng tôi nhắm vào ba tiêu chuẩn: khoa học (rõ ràng thứ lớp); đại chúng (phổ thông, bình dân); và dân tộc (sắc thái Việt Nam), nên những kinh sách, mặc dù khó đến đâu, qua sự phiên dịch hoặc sáng tác của chúng tôi, cũng đều làm cho người đọc được dễ hiểu và rõ ràng.
Theo sự kinh nghiệm của chúng tôi trên mười năm nay về việc trước tác và phiên dịch, nếu tác phẩm nào thiếu ba tiêu chuẩn trên (khoa học, đại chúng và dân tộc) thì khó có thể phổ biến sâu rộng trong quảng đại quần chúng.
6. TẠO HOÀN CẢNH THÍCH HỢP
Hoàn cảnh là một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại. Chúng ta nên hay hư, giỏi hay dở, đa số đều do ảnh hưởng hoàn cảnh tốt hay xấu. Chúng tôi làm được một vài công tác về phiên dịch và sáng tác, là do chúng tôi tự tạo ra một hoàn cảnh thuận tiện để nó thúc đẩy chúng tôi trên công việc này.
Trước nhất, chúng tôi mở ra một lớp học giáo lý hằng tuần (bắt đầu năm 1953 đến nay, mỗi tuần vào tối Thứ Tư hoặc tối Thứ Năm), và soạn chương trình giáo lý từ sơ cấp đến cao đẳng. Mỗi tuần tôi soạn một bài giáo lý để dạy. Và tôi phải nghiên cứu cách dạy (nghệ thuật trình bày), mỗi bài phải dạy thế nào cho hấp dẫn, người học dễ thâu thập và thích thú. Vì thế mà người học mỗi ngày mỗi đông và bắt buộc tôi mỗi tuần phải soạn ra một bài để dạy. Một năm tôi mở hai hoặc ba khóa (trước hạ, giữa hạ, và sau hạ). Nhờ thế mà bài vở mỗi ngày thêm nhiều và nghệ thuật giảng dạy mỗi ngày càng thêm điêu luyện.
Sau khi đã có sẵn một số tài liệu về giáo lý, và nắm chắc kết quả về sự giảng dạy ở trong tay rồi, chúng tôi liền mở ra các lớp huấn luyện cán bộ: giảng sư, trụ trì và Như Lai sứ giả để huấn luyện về chuyên môn.
Sau khi được huấn luyện thuần thục, nắm chắc sự thành công trong tay, các vị cán bộ được cử đi các Tỉnh Hội Phật Học mở khóa dạy giáo lý, mỗi nơi mười đêm. Người học mỗi đêm càng đông. Người dạy mỗi ngày thêm hào hứng. Nhờ thế mà chúng tôi gây được phong trào học giáo lý trong các năm vừa qua ở miền Nam. Không gì thích thú bằng bài mình soạn có người dạy, sách mình viết có người đọc. Hoàn cảnh này thúc đẩy chúng tôi phải cố gắng biên soạn, để cung ứng nhu cầu về giáo lý cho quý Phật tử bốn phương.
7. SÁNG KIẾN
Với sáng kiến, công việc của chúng ta dù cũ cũng thành mới mẻ. Trong khi giảng dịch hay viết, nếu không có một đôi chút sáng kiến thì người nghe hay đọc cảm thấy khô khan, buồn nản. Trái lại, nếu chúng ta có sáng kiến thêm vào, thì người đọc cảm thấy như thưởng thức được vài phần hương vị mới lạ. Chúng tôi xin dẫn một vài bằng chứng điển hình:
Bộ Đại Thừa Bá Pháp Minh Môn là một bộ luận đã có từ nghìn xưa, người đọc rất khó hiểu. Nhưng chúng tôi có sáng kiến, căn cứ vào đó, sáng tác quyển Tu Tâm, làm cho người đọc dễ hiểu và thích thú.
Kinh Lăng Nghiêm đã có mấy nhà dịch ra chữ Việt, nhưng bản dịch của chúng tôi vì có đôi phần sáng kiến và sáng tác, nên được nhiều người thích đọc, vì rõ ràng và dễ hiểu.
Bởi thế nên sáng kiến không những rất cần trong việc phiên dịch và sáng tác, mà còn rất cần trong mọi công việc và mọi hoàn cảnh.
8. KẾ HOẠCH VÀ TỔ CHỨC
Phàm làm việc gì có kế hoạch và biết tổ chức thì công việc mới thành tựu dễ dàng. Trên đoạn thứ sáu nói về hoàn cảnh, chúng tôi đã nói một vài khía cạnh về sự tổ chức việc làm của chúng tôi. Đến đây chúng tôi nói rõ thêm, để giúp ích phần nào cho những người bạn muốn đi theo con đường của chúng tôi.
Theo đúng kế hoạch và tổ chức, chúng tôi chia công việc ra làm ba phần như sau: biên soạn, xuất bản, và phổ biến (phát hành).
a. Phần biên son và phiên dch: Chúng tôi lập Phật Học Tùng Thư, chia ra làm mười loại sách sau đây: (1) Kinh, (2) Luật, (3) Luận, (4) Phật học phổ thông, (5) Bài giảng, (6) Phật học giáo khoa, (7) Giáo lý dạy gia đình Phật tử, (8) Tạp luận, (9) Sự tích, (10) Kinh tụng (các nghi thức tụng niệm).
Tất cả 10 loại sách này, gồm tám mươi thứ, phân chia làm tám bộ:
(1) Bộ Phật Học Phổ Thông, mười hai khóa (hay cây thang giáo lý mười hai nấc).
(2) Bộ Bản Đồ Tu Phật, mười tập (Đại cương Phật Giáo: mười tôn phái).
(3) Bộ Duy Thức Học, sáu quyển (các sách vở chánh tông của Duy Thức).
(4) Phật Học Giáo Khoa dành cho các trường trung học Bồ Đề từ đệ thất đến đệ nhất [nay gọi là lớp sáu, lớp mười hai].
(5) Giáo lý dạy gia đình Phật tử (sắp thực hiện).
(6) Nghi Thức Tụng Niệm (kinh nhựt tụng đại bổn và tiểu bổn, v.v...).
(7) Tám Quyển Sách Quý, Bài Học Ngàn Vàng, v.v... (tạp luận).
(8) Sự tích.
Các bộ sách này, sắp có thứ tự và theo hệ thống từ thấp đến cao, từ dễ đến khó, làm cho người đọc dễ hiểu, như cây thang có nhiều nấc, khiến cho người leo lên cao không khó (muốn rõ hệ thống tổ chức và nội dung của mỗi bộ sách nói trên, xin quý vị xem quyển Mục Lục Kinh Sách, Hương Đạo xuất bản).
b. Phần xuất bản: Chúng tôi tổ chức một cơ quan xuất bản gọi là nhà xuất bản Hương Đạo, để xuất bản kinh sách của chúng tôi phiên dịch và sáng tác từ trước đến nay.
Từ hai bàn tay trắng, chúng tôi chỉ lấy công làm lời, lấy lời làm vốn. Ban đầu in từ [từng] quyển sách nhỏ, như Tu Tâm, lần đến các tập Phật Học Phổ Thông, v.v... Ngoài sự trả tiền in cho nhà in và bút phí, chúng tôi rất tiện tặn, không dám tiêu xài. Dành dụm cho tới ngày nay, nhà xuất bản Hương Đạo của chúng tôi được một kho sách gồm tám mươi thứ.
c. Phần phổ biến: Như đoạn trên, trong đoạn thứ 6 nói về Tạo hoàn cảnh thích hợp, chúng tôi có nói sơ lược: sau khi đã có sách vở rồi, chúng tôi mở lớp giáo lý tại Thủ Đô [Sài Gòn] dạy theo chương trình chúng tôi đã soạn. Rồi chúng tôi huấn luyện cán bộ đi các tỉnh, cũng dạy theo tài liệu nói trên. Ngoài ra, chúng tôi còn gởi các nhà phát hành kinh sách ở Trung và Nam để họ phổ biến sâu rộng trong quần chúng. Nhờ thế mà giáo lý được phổ biến và giúp cho sự xuất bản được dễ dàng và sự phiên dịch sáng tác khỏi bị khủng hoảng.
9. KINH NGHIỆM
Mỗi khi chúng ta làm một việc gì, dù thất bại hay thành công đều là một bài học cho chúng ta rút kinh nghiệm để làm việc sắp đến. Về việc sáng tác, phiên dịch, xuất bản, và phổ biến, trên mười năm nay, chúng tôi rút rất nhiều kinh nghiệm về sự thất bại cũng như thành công. Gặp thành công, chúng tôi giữ y như thế mà tiến. Gặp thất bại chúng tôi rút kinh nghiệm để sửa chữa. Mỗi khi ra một quyển sách hay giảng một bài nào, chúng tôi dọ hỏi dư luận quần chúng, tìm hiểu những phê bình chỉ trích hơn là lời khen ngợi. Nhờ thế mà chúng tôi gặt hái được những thành quả hôm nay.
10. TRÌNH BÀY TƯ TƯỞNG PHẬT GIÁO ĐÔNG PHƯƠNG QUA PHƯƠNG PHÁP TÂY PHƯƠNG
Chúng tôi vào chùa từ thuở bé, lo học giáo lý nhà Phật, chỉ hấp thụ tư tưởng Phật Giáo đông phương. Một duyên may, năm 1941, tôi được dự thính lớp thanh niên Đức Dục tại Huế, do bác sĩ Lê Đình Thám đảm nhiệm. Bác sĩ là người rất giỏi về Âu học và cũng rất thâm về Á học. Bác sĩ đem phương pháp giảng giải của Tây phương mà giảng giải phân tích nền triết học cổ học Đông phương một cách rõ ràng, rành mạch mà vẫn giữ được phần cao siêu thâm thúy. Chúng tôi thích thú vô cùng. Mặc dù hấp thụ trong thời gian không lâu, nhưng một khi hạt giống đã rơi vào tâm điền rồi, từ đó về sau nó sẽ tiến hóa luôn, nứt mộng nẩy chồi cho đến khi đơm bông kết trái.
Về sự giảng dạy cũng như sự trước tác, phiên dịch của chúng tôi, người nghe và người đọc được dễ hiểu, rõ ràng và rành mạch là nhờ chúng tôi áp dụng được đôi phần phương pháp Tây phương.
11. ĐẶT SÁT VẤN ĐỀ
Một vài người bạn đến chơi và thân mật phê bình: "Thầy không thông minh lắm, chậm chạp và ít sáng kiến, nhưng mỗi khi có một sáng kiến nào, thì thầy đeo đuổi và làm cho kỳ được. Điều quý nhất là thầy biết đặt sát vấn đề, biết cân nhắc đắn đo, chọn người chọn việc, đặt đúng chỗ và dùng đúng thời, nên thành công được nhiều khả quan.”
12. KHÔNG ĐI XA MỤC ĐÍCH
Mỗi khi làm một việc gì, trước nhất chúng tôi tự hỏi: Mục đích để làm gì? Sau khi hạ thủ công việc ấy, chúng tôi luôn luôn nhắm mục đích ấy mà tiến, không dám đi lạc đường. Như việc phiên dịch và sáng tác này, trước khi bắt tay vào việc, chúng tôi tự vấn lương tâm: Mục đích để làm gì? Vì danh? Vì lợi? Hay vì hoằng pháp lợi sinh? Sau khi chúng tôi quyết định: Mục đích để phổ biến giáo lý và may ra có lợi [lãi] phần nào, thì tiếp tục in thêm các kinh sách khác và giúp cho quý vị cán bộ diễn giảng hay những người đang thiếu thốn chung quanh.
Vì mục đích trên, các năm đầu, mỗi tháng chúng tôi đều có cúng dường theo bản nguyện. Sau một thời gian thấy quý vị giảng sư được thành công trong việc diễn giảng, có đủ phương tiện để tự túc, chúng tôi lại bớt phần cúng dường, xoay lại để làm bút phí cho sự sửa chữa, hay tu chỉnh các tác phẩm và dịch phẩm đã xuất bản. Đến nay, công việc tu chỉnh và xuất bản, v.v... vẫn còn tiếp tục.
Nhờ không đi sai mục đích hay bản nguyện, nên chúng tôi được toại nguyện khá nhiều.
13. BIẾT DÙNG VÀ DÁM DÙNG TIỀN
Đành rằng không tiền thì không làm được việc gì, nhưng có tiền mà đắn đo rít róng, tiện tặn quá, thì cũng không làm nên việc gì lớn lao. Lại nữa, có tiền mà không biết dùng tiền, nghĩa là dùng tiền không đúng chỗ, không hợp thời, thì có tiền chỉ thêm hại mà thôi. Trái lại, dùng tiền trúng chỗ, hợp thời thì được thành công tốt đẹp.
Xuyên qua các đoạn trên (phần xuất bản và đoạn thứ 12 (Không đi xa mục đích), quý vị thấy chúng tôi lấy công làm lời, lấy lời làm vốn, rất tiện tặn dành dụm và tích trữ mới thành một sự nghiệp (một kho sách, mười loại, gồm tám mươi thứ). Mặc dù chúng tôi tiện tặn, tiết kiệm như vậy, nhưng vì muốn cho thành một sự nghiệp văn hóa nên với việc đáng dùng như tu chỉnh, sửa chữa lại các bộ sách đã xuất bản, chúng tôi dám xuất số tiền, có thể nói gần quá sức lo của chúng tôi. Không sợ tốn kém, miễn sao thành tựu công việc thì thôi. Nhờ thế chúng tôi thâu góp được kết quả theo ý muốn.
VIII. GHI ƠN
Kinh chép: Chư pháp tùng duyên sanh. Chính thế, mặc dù chúng tôi đã có chí nguyện đóng cây thang giáo lý làm chánh nhơn, nhưng nếu không nhờ các duyên lành, thì cũng khó mà thành tựu. Vậy hôm nay, công việc mà chúng tôi xem như một “sự nghiệp” của đời tôi, có thể nói là đã hoàn thành, chúng tôi xin thành tâm ghi đậm công ơn sau đây:
1. Ơn Tam Bảo [Phật, Pháp, Tăng] gia hộ.
2. Ơn quý sư trưởng và thiện hữu tri thức mở mang kiến thức;
3. Ơn phụ mẫu sanh thành và ơn đàn na ([4]) giúp đỡ.
4. Ơn Thượng Tọa Thích Thiện Hòa, Đại Đức Thích Trường Lạc, v.v... đã soạn giúp một số bài, khi chúng tôi quá bận việc và vui lòng chiều theo ý muốn, để mặc tình chúng tôi sửa chữa.
5. Ơn đạo hữu Võ Đình Cường đã giúp tôi rất nhiều về việc tu chỉnh bài vở.
6. Ơn quý Phật tử đến học hằng tuần (từ năm 1953 đến 1962) tạo hoàn cảnh để thúc đẩy chúng tôi sáng tác và thí nghiệm chương trình giáo lý.
7. Ơn đạo hữu Nhuận Chưởng, Minh Phúc, và ông Dương Kiều Thi, v.v... đã giúp chúng tôi về việc xuất bản.
IX. HIẾN GIÁO HỘI (…)
Những tác phẩm hay dịch phẩm của nhà xuất bản Hương Đạo chúng tôi, sau khi tu chỉnh hoàn toàn, và trả tất nợ nhà in rồi, chúng tôi sẽ làm lễ hiến cho Giáo Hội (…) hay những người nối theo chí nguyện (phiên dịch và sáng tác) của chúng tôi.
Những tác phẩm của chúng tôi, đều không giữ bản quyền đối với quý vị nào muốn ấn tống. Nhưng, nếu ai muốn sửa đổi nội dung hay in để kiếm lời, thì phải được sự đồng ý của chúng tôi.
X. HỒI HƯỚNG
Tôi làm được điều lợi ích gì, có bao nhiêu công đức đều hồi hướng:
Trên đền đáp bốn ơn
Dưới cứu giúp ba loài
Cầu nguyện cho
Mặt trời Phật thêm sáng
Bánh xe pháp xoay hoài
Thế giới đều hòa bình
Nhơn dân được an lạc
Tôi và các chúng sinh
Đều sanh về cõi Phật.
 Viết tại dưỡng đường Đồn Đất, Sài Gòn
Quý Xuân Ất Tỵ (1965)
Sa môn THÍCH THIỆN HOA
Nguồn: https://thuvienhoasen.org/a3698/phu-luc-mot-su-nghiep-cua-doi-toi
Tại thánh tịnh Ngọc Điện Huỳnh Hà, ngày 01-8-1964, Đức Quan Thánh Đế Quân dạy: Nhìn giáo bạn mà bì Đại Đạo / Xem chúng nhân mà tạo tín đồ. Tại thánh thất Nam Thành, ngày 17-02-1969, Đức Lý Giáo Tông nhắc lại lời Đức Gia Tô Giáo Chủ dạy trong một dịp lễ Giáng Sinh rằng chúng ta chỉ có tâm thức thì sáng mà ý thức còn u tối. In lại bài viết của danh tăng Việt Nam Thích Thiện Hoa (1918-1973), Đạo Uyển ước mong và tin rằng những con cái áo trắng nặng lòng thương Thầy mến Đạo sẽ gẫm suy, thấm thía, và thắp sáng ý thức phổ thông giáo lý để hoằng khai Đại Đạo.


([1]) Xuân Kinh tức là kinh đô Phú Xuân, cũng là cố đô Huế. Năm 1938 (lúc hai mươi mốt tuổi ta) thầy Thiện Hoa ra Huế tu học tại Phật Học Đường Tây Thiên trong hai năm rồi đi vào Quy Nhơn. (Đạo Uyển chú)
([2]) bì quyện 疲倦: Mỏi mệt. (Đạo Uyển chú)
([3]) Bá tước De Buffon (1707-1788) nói: Le style, c’est l’homme. Câu này dịch sang tiếng Anh như sau: The style is the man. Tức là: Bạn có thể biết được [tính cách] một người qua những gì người ấy viết. (You may know a man through his writing.) (Đạo Uyển chú)
([4]) đàn na 檀那: Phật tử tại gia, cúng dường các thứ cần dùng cho tăng ni. (Đạo Uyển chú)