MỘT TẤM GƯƠNG HOẰNG GIÁO:
ĐOÀN TRUNG CÒN (1908-1988)
Ông Đoàn
Trung Còn sanh 02-11-1908 tại làng Thắng Nhì, Vũng Tàu (Cap Saint Jacques), tỉnh Bà Rịa. Sau khi đậu bằng Thành Chung,([1])
ông làm tư chức tại Sài Gòn. Vợ ông là Lê Thị Tàu, quê ở An Giang, sinh được
một trai, một gái. Bà tạ thế năm 1985.
Thông
thạo tiếng Pháp, tự học mà giỏi chữ Hán, lại biết thêm cả Sanskrit và Pali nên ông rất
thuận lợi trong việc nghiên cứu, dịch thuật kinh sách đạo Phật và đạo Nho.
Từ đầu
thập niên 1930 ông thành lập Phật Học
Tòng Thơ để xuất bản những kinh sách Phật Giáo do ông soạn hay dịch. Những
kinh sách do các tăng sĩ hay cư sĩ khác soạn hay dịch thì ông xuất bản trong Phật Học Thơ Xã. Ông lập thêm Trí Đức Tòng Thơ để xuất bản những sách Nho
Giáo hay Hán Văn do ông soạn hay dịch. Nhà riêng của ông tại số 143 đường Đề
Thám,([2])
quận Nhứt, Sài Gòn, được dùng làm cơ sở xuất bản. Các kinh sách Phật, Nho của ông
đều có in kèm chữ Hán, và tất cả đều được xếp chữ và in typo tại nhà ông tại địa chỉ nói trên. Do đó, ngoài sách vở, tủ fiche (đựng thẻ hay phiếu tài liệu), nơi
ông làm việc đầy các ngăn hộc đựng chữ chì (type
mobile)…
Năm
1955, ông hợp tác cùng với các tăng sĩ và thân hữu thành lập Hội Phật Giáo Tịnh
Độ Tông Việt Nam (cũng gọi là Phật Giáo Tịnh Độ Tông Việt Nam, Giáo Hội Tịnh Độ
Tông), đặt trụ sở tại chùa Giác Hải, Phú Lâm, Chợ Lớn.([3])
Bản Điều Lệ của Hội soạn thảo ngày 30-10-1954. Ngày 25-02-1955, đính kèm nghị
định số 8 BNV/CT, Bộ Nội Vụ cho phép Hội hoạt động theo đơn xin do bốn vị sau
đây ký tên:
1. Ông
Đoàn Trung Còn, bốn mươi sáu tuổi, sanh ngày 02-11-1908 tại Thắng Nhì (Vũng
Tàu), Giám Đốc Phật Học Tòng thơ.
2. Ông
Nguyễn Văn Vật, pháp danh Chơn Mỹ, bốn mươi ba tuổi, sanh năm 1911 tại Chợ Lớn,
trụ trì chùa Giác Hải ở Phú Lâm, Chợ Lớn.
3. Ông
Nguyễn Văn Thiệu, pháp danh Chơn Minh, bốn mươi bốn tuổi, sanh năm 1910, tại
Tân Hưng (Sa Đéc), trụ trì chùa Giác Chơn ở số 67/B đường Renault,([4])
Chợ Lớn.
4.
Ông Lý Trung Hiếu, sáu mươi tuổi, sanh ngày 21-11-1894 tại Trường Thạnh (Cần
Thơ), đốc công Sở Công Chánh, nhà riêng số 262 đường Chasseloup-Laubat,([5]) Sài Gòn.
Năm 1959
ông Đoàn Trung Còn xây chùa Liên Tông tại số 145 Đề Thám; Hội Phật Giáo Tịnh Độ
Tông Việt Nam dời trụ sở về đây hoạt động. Trong Hội, ông Đoàn Trung Còn là Trị
Sự, Trưởng Ban Chấp Sự Trung Ương.
Đầu thập
niên 1970, ông xuất gia, trở thành tu sĩ Thích Hồng Tại. Ông viên tịch ngày
15-3-1988, thọ tám mươi mốt tuổi ta với trên năm mươi năm hoằng pháp bằng con
đường tu thư, xuất bản. Sau khi qua đời, ông được Tịnh Độ Non Bồng (núi Dinh,
Bà Rịa) tôn lên phẩm Hòa Thượng. Giáo Hội Tịnh Độ Tông Việt Nam tổ chức tang lễ
tại chùa Liên Tông, sau đó hỏa táng ở đồi khuynh diệp của bác sĩ Tín ở Xa Lộ
Biên Hòa.
CÁC KINH SÁCH ĐÃ XUẤT BẢN
A. Một số nhan đề đã xuất
bản trong Phật Học Tòng Thơ:
1. Bồ Tát Giới Kinh; 2. Các Tông Phái Đạo Phật; 3. Chư Kinh Tập Yếu (A Di Đà Kinh, Phổ Môn,
Tứ Thập Nhị Chương Kinh, Phật Di Giáo Kinh, Vô Lượng Nghĩa Kinh); 4. Chuyện Phật
Đời Xưa; 5. Đại Bát Niết Bàn
Kinh; 6. Đạo Lý Nhà Phật; 7. Di Lặc Kinh; 8. Địa Tạng Kinh; 9. Diệu Pháp
Liên Hoa Kinh; 10. Du Lịch Xứ Phật; 11.
Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh; 12. Kim Cang Kinh; 13. Lịch Sử Nhà Phật; 14. Mấy
Thầy Tu Huyền Bí; 15. Một Trăm Bài
Kinh Phật; 16. Na Tiên Tỳ Kheo Kinh;
17. Pháp Bảo Đàn Kinh (dịch chung với
Huyền Mặc Đạo Nhơn); 18. Pháp Giáo Nhà
Phật; 19. Phật Học Từ Điển; 20. Quán Vô Lượng Thọ Kinh; 21. Qui Nguyên Trực Chỉ; 22. Tam Bảo Văn Chương; 23. Tăng Đồ Nhà Phật; 24. Triết Lý Nhà Phật; 25. Truyện Phật Thích Ca; 26. Văn Minh Nhà
Phật; 27. Vô Lượng Thọ Kinh; 28. Yếng Sáng Á Châu . . .
B. Một số nhan đề đã xuất bản trong Phật Học Thơ Xã:
1. Bốn
Mươi Tám Lời Nguyện Của Phật A Di Đà; 2. Học Phật Chánh Pháp; 3. Khuyên
Tu Tịnh Độ; 4. Kinh Tam Bảo (Di
Đà, Hồng Danh, Vu Lan, Phổ Môn, Kim Cang); 5. Nước Ấn Độ Trước Phật; 6.
Phật Pháp Vỡ Lòng; 7. Quan Âm Linh Xăm; 8. Quan Âm Thị Kính; 9. Sách Nấu Đồ Chay; 10. Sự Tích Phật A Di Đà; 11. Thành Đạo . . .
C. Một số nhan đề đã xuất
bản trong Trí Đức Tòng Thơ:
1. Hiếu Kinh; 2. Học Chữ Hán Một Mình; 3. Minh
Đạo Gia Huấn; 4. Ngũ Thiên Tự (hai quyển: một quyển in
theo xưa, một quyển theo lối tự điển Hán-Việt-Pháp); 5. Nhị Thập Tứ Hiếu; 6. Tam
Thiên Tự (ba cuốn: một cuốn in theo xưa, Hán-Việt; một cuốn in theo lối
tiểu tự điển Hán-Việt-Pháp; một cuốn in theo lối tiểu tự điển Pháp-Hán-Việt);
7. Tam Tự Kinh; 8. Truyện Đức Khổng Tử; 9. Tứ Thơ (Đại Học, Trung Dung, Luận Ngữ,
Mạnh Tử) . . .
PHI PHI
([5]) Theo Nguyễn Đình Tư,
ban sơ đường này gọi là đường Thiên Lý, rồi đổi thành đường Stratégique, lại đổi
thành đường 25. Ngày 01-02-1865 gọi là đường Chasseloup-Laubat. Ngày 22-3-1955,
gọi là đường Hồng Thập Tự. Ngày 14-8-1975 đường này nhập chung với đường Hùng Vương
ở Thị Nghè và quốc lộ 13 ở Hàng Sanh thành một đường gọi là Xô Viết Nghệ Tĩnh.
Ngày 02-9-1991 đoạn từ cầu Thị Nghè tới công trường Cộng Hòa được gọi là đường
Nguyễn Thị Minh Khai.