Bản thảo giáo khoa Cao Đài
Trong đạo Cao Đài hiện nay
đang có nhu cầu biên soạn các bài giảng về kinh cúng, giáo lý căn bản, v.v… ngõ
hầu triển khai trong các khóa học được tổ chức tại các Hội Thánh, thánh thất,
thánh tịnh, học viện, v.v… Mục BẢN THẢO GIÁO KHOA CAO ĐÀI mở ra nhằm dần dần
đáp ứng chút ít tài liệu tham khảo, ước mong góp phần bé mọn để quý đạo hữu
giảng viên có thể nhẹ bớt phần nào “gánh nặng” trong muôn một.
Việc đăng bài nơi đây sẽ tùy
duyên, nghĩa là trong khả năng hạn hẹp, hễ có được bài giảng nào thì phổ biến
bài đó. Biển học vô bờ. Chúng tôi kính mong và tin tưởng quý đạo hữu luôn hoan
hỷ lượng thứ mọi nhầm lẫn, thiếu sót nếu chúng tôi vướng phải, và sẽ vui lòng
chỉ giáo để chúng tôi kịp thời sửa chữa chỗ sai lầm, bổ túc chỗ thiếu sót. Gọi
mục này là “Bản thảo giáo khoa” cũng vì lẽ ấy. (H.Kh.)
NGŨ
NGUYỆN
I.
KINH VĂN
Nhứt nguyện Đại Đạo hoằng khai.
Nhì nguyện phổ độ chúng sanh.
Tam nguyện xá tội đệ tử.
Tứ nguyện thiên hạ thái bình.
Ngũ nguyện thánh thất an ninh.
II.
KHẢO DỊ
1.
Theo Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài, và Hội Thánh Cao Đài Tiên Thiên, bốn
câu nguyện 2, 3, 4, và 5 đều đọc là: Nam
mô nhì nguyện, Nam mô tam nguyện, Nam mô tứ nguyện, Nam mô ngũ nguyện.
2. Theo Cao Đài Thống Nhứt (nay không còn
hành đạo), khi xưa câu nguyện 5 đọc là: Nam mô ngũ nguyện Đại Đạo quy nguyên.
3. Theo Hội Thánh Cao Đài Tiên Thiên, câu
nguyện 5 đọc là: Nam mô ngũ nguyện tịnh thất an ninh.
III.
CHÚ GIẢI
Lịch
sử:
Năm 1926: Tiền khai Nguyễn Ngọc Thơ
(1873-1950) in Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Kinh
(Sài Gòn: nhà in Xưa Nay, 34 trang ruột và bìa, khổ 12x15,5cm). Trang 32
kết thúc với Bài Khen Ngợi Kinh Sám Hối;
không có Ngũ Nguyện.
Năm 1927: Tiền khai Hương Thanh
(1874-1937) in Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Kinh
(Sài Gòn: nhà in L’Union, 40 trang ruột và bìa, khổ 12x15cm). Ngay trước
bài Niệm Hương (trang 1) có in Ngũ Nguyện, chữ Hán và quốc ngữ.
Như vậy, suy ra Ngũ Nguyện có thể xuất hiện từ năm 1927, nhưng chưa biết do thánh
giáo nào ban truyền, và ở đâu.
Câu 1:
Nhứt
nguyện 一願: Điều thứ nhứt xin cầu nguyện cho (Firstly, we pray for). Điều thứ nhứt xin
hứa nguyện (Firstly, we pledge that …).
Đại
Đạo 大道: Nói tắt Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ (the Great Way of the Third Universalism).
Hoằng
khai 弘開: Mở mang rộng khắp (being extensively developed).
Nhứt
nguyện Đại Đạo hoằng khai 一願大道弘開:
(a) Hiểu theo nghĩa thụ động là trước
tiên cầu nguyện cho Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ được hoằng khai (Firstly, we pray for the extensive development of the Great Way of the
Third Universalism).
(b) Hiểu theo nghĩa tích cực là trước
tiên chúng con xin hứa nguyện hoằng khai Đại Đạo (Firstly, we pledge to extensively develop the Great Way of the Third Universalism).
Câu 2:
Nhì
nguyện 二願: Điều thứ nhì xin hứa nguyện (Secondly, we pledge that …).
Phổ
độ chúng sanh 普度眾生: Truyền bá đạo Thầy rộng
khắp để giúp chúng sanh thức tỉnh tu hành (Diffusing
Caodaism extensively to help human beings be awakened and cultivate themselves).
Nhì
nguyện phổ độ chúng sanh 二願普度眾生: Điều thứ hai xin hứa nguyện
truyền bá đạo Thầy rộng khắp để giúp chúng sanh thức tỉnh tu hành (Secondly, we pledge to diffuse Caodaism extensively to help human
beings be awakened and cultivate themselves).
Câu 3:
Tam
nguyện 三願: Điều thứ ba xin cầu nguyện (Thirdly, we pray for …).
Xá
tội 赦罪: Tha thứ tội lỗi (forgiving sins).
Đệ tử
弟子: Học trò (disciple),
tiếng môn đệ Đức Cao Đài tự xưng.
Tam
nguyện xá tội đệ tử 三願赦罪弟子: Điều thứ ba xin cầu nguyện Thầy
tha tội cho chúng con (Thirdly, we pray
to God for the forgiveness of our sins).
Câu 4:
Tứ
nguyện 四願: Điều thứ tư xin cầu nguyện (Fourthly, we pray for …).
Thiên
hạ 天下: Toàn cõi thế gian (the whole world).
Thái
bình 太平: An ổn, yên lành (peaceful).
Tứ
nguyện thiên hạ thái bình 四願天下太平: Điều thứ tư xin cầu nguyện
cho thế gian thái bình (Fourthly, we pray
for the peace of the whole world).
Câu 5:
Ngũ
nguyện 五願: Điều thứ năm xin cầu nguyện (Fifthly, we pray for …).
Lưu ý: Hai chữ Ngũ Nguyện ở nhan đề lại có nghĩa là năm lời cầu nguyện (The Five Prayers).
Thánh
thất 聖室: Nhà
thánh (holy house), nơi thờ Đức Cao
Đài và là nơi họp, sinh hoạt, hành đạo, tu học của tín đồ Cao Đài.
An
ninh 安寧: Yên
ổn, thanh tịnh (in repose).
Ngũ
nguyện thánh thất an ninh 五願聖室安寧:
Điều thứ năm xin cầu nguyện cho thánh thất được an ninh (Fifthly, we pray for the repose of our holy house).
IV.
TỔNG LUẬN
1. Khi nguyện Đại Đạo hoằng khai, người
tín đồ Đại Đạo phải ráng sức phổ thông, phổ truyền giáo lý để hoằng khai Đại
Đạo (phát triển tôn giáo của mình), và muốn hoằng khai Đại Đạo thì phải chăm lo
phổ độ chúng sanh. (Câu nguyện thứ nhất và câu nguyện thứ hai không tách rời
nhau).
2. Khi nguyện phổ độ chúng sanh (độ tha) thì cũng hiểu rằng mỗi một người
chính là một phần tử của chúng sanh, và bản thân mỗi người còn là tập hợp của
vô số chúng sanh (là các tế bào). Vậy, phổ độ chúng sanh thì không quên điều căn
bản là phải cứu độ lấy chính mình (tự độ).
Thân mình không độ, lại độ thân ai? (Ngô
thân bất độ, hà thân độ? 吾身不度, 何身度?)
3. Khi nguyện xin Thầy tha tội bản thân,
người tín đồ cũng nên biết tha thứ lỗi lầm kẻ khác. Tâm hỷ xả, bao dung giúp
cho cộng đồng đoàn kết, tránh cho nội bộ bất hòa, chung tâm chung sức cùng lo
phổ độ chúng sanh, cũng là góp phần cho thiên hạ thái bình, thánh thất an ninh.
4. Khi nguyện thiên hạ thái bình, người
tín đồ còn ý thức không làm tổn hại đến sự an bình của cộng đồng chung quanh
mình, góp phần cho chúng sanh an vui, cũng là phương tiện phổ độ chúng sanh.
5. Khi nguyện thánh thất an ninh, mỗi
thành viên trong một thánh sở hay tổ chức Cao Đài ý thức gìn giữ cho cộng đồng
mình không bị rạn nứt vì khảo đảo. Là một phần tử của “thiên hạ”, thánh thất an
ninh sẽ góp phần cho thiên hạ thái bình.
Hơn nữa, thánh thất là nơi thờ Đức Thượng
Đế, nơi tín đồ tu học và hành đạo. Thánh
thất hiểu sâu xa hơn còn là thân mạng mỗi tín đồ, trong đó có Thượng Đế nội tại
(immanent God). Khi nguyện thánh thất an ninh, người tín đồ
ý thức biết bảo trọng sinh mạng. Nếu khinh suất làm mất sự sống của người tu
thì không còn xác thân làm phương tiện tu hành, lập công bồi đức, cũng không thể
phổ độ chúng sanh hay hoằng khai Đại Đạo.
Ngũ nguyện tuy năm mà chung quy vẫn một
lý. Nguyện ở đây không phải chỉ là cầu xin tha lực và đợi chờ sự ban bố của Ơn
Trên. Nguyện còn có nghĩa là tự nhắc nhở mình vào mỗi thời cúng trong ngày, tâm
tâm niệm niệm thực thi điều bản thân mong muốn (nguyện). Trong tha lực có tự lực, đó là một giá trị nhân bản trong
phương pháp tu hành của đạo Cao Đài.
V.
THÁNH GIÁO DẠY VỀ NGŨ NGUYỆN
1. Về
câu nguyện 5:
Tại Minh Lý
Thánh Hội, Tuất thời, 14-01 Kỷ Dậu (Chủ Nhật 02-3-1969), Đức TAM TRẤN OAI NGHIÊM QUAN ÂM NHƯ LAI
dạy:
Câu nguyện chót là “Ngũ nguyện thánh thất an ninh”. Thông thường,
chư hiền đệ muội hiểu nghĩa rất hẹp là cầu nguyện cho thánh thất là chỗ thờ
phượng được an ninh. Nếu hiểu như vậy thôi thì Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ không cần
phải nêu câu ấy lên để mà làm chi.
(…)
Chư hiền đệ muội phải hiểu như thế này: Thánh thất gồm có Bát
Quái, Cửu Trùng và Hiệp Thiên Đài. Thánh thất cũng là tượng trưng cho hình thể
Chí Tôn Đại Từ Phụ, trong đó có cả từ Thượng Đế đến vạn linh. Một tổ chức rộng
lớn như vậy cũng thể hiện cho càn khôn vũ trụ. Muốn cho càn khôn vũ trụ được
điều hòa nhựt nguyệt tinh tú, Thượng Đế phải nắm giữ quyền pháp, cũng như điều hành guồng máy
đạo. Một tổ chức từ nhỏ đến lớn cũng phải có quyền pháp. Nếu không quyền pháp
điều hành vận chuyển thì các khối tinh cầu trong vòng luân chuyển sẽ đụng nhau,
thì vũ trụ này mất an ninh. Còn các phần hành của mỗi tổ chức không theo quyền
pháp thì tổ chức đó bị loạn.
(…)
Giờ đây Bần Đạo trở lại câu nguyện thứ năm.
Thánh thất cũng tượng trưng cho lớn nhứt là vũ trụ, nhỏ nhứt là
bản thân cá thể của con người, cho đến từ ([1]) cá thể côn trùng thảo mộc, bò bay máy cựa
nữa. Nếu vũ trụ chẳng an ninh, cơ
sanh hóa không thể trưởng thành. Guồng máy cai trị nhà nước nếu chẳng an ninh
thì xáo trộn từ đầu não chỉ huy đến hạ tầng quần chúng. Gia đình nếu chẳng an
ninh thì làm sao an cư lạc nghiệp hạnh phúc được? Bản thân nếu chẳng an ninh
thì đời người như mất hết chín phần mười. Như vậy, an ninh là nhu cầu cần thiết
cho tất cả mọi giới, mọi lãnh vực.
Chư hiền đệ muội là người tầm đạo tu thân, cũng hoài vọng an ninh.
Nếu thậm đa tửu nhục thì ngũ tạng lục phủ mất an ninh. Nếu thậm đa sắc dục thì
bản thân cũng mất an ninh.
Nói rộng ra một chút: Như người sử dụng các loại xe không thi hành
đúng luật đi đường, đó là tự mình làm mất an ninh cho mình.
Trên đường đạo hoặc đường đời cũng thế, nào khác chi đâu. Mọi sự
kiện xảy đến cho mình, đa số là tự mình gây nên, chỉ thiểu số từ ngoại cảnh đưa
đến mà thôi. Cái ngoại cảnh ấy cũng do ảnh hưởng phần nội tâm mà ra, chớ không hoàn toàn là rủi ro từ
đâu đưa đến. Nếu thiếu đức, ngoại cảnh mới xâm vào.
Chư hiền đệ muội thử nghĩ: Có bao giờ những người chân tu đạo đức
mà lại gặp những bạn tửu nhục đạo tặc đến rủ ren, hay trái lại, có bao giờ
những người đổ bác đạo tặc mà có người bạn văn nhân sĩ khí đến bao giờ. Như vậy
là nội tâm mỗi người được thuần chân đúng đắn sẽ có ngoại cảnh an lành tốt đẹp
trợ duyên. Nội tâm sẵn dành chỗ phụng thờ Thượng Đế, hoài bão những việc làm
của Thượng Đế, thì không còn chỗ nào trống để tà mị lấn chen.
(…)
Nói
như vậy để những ai là người tu thân lập đức, hành đạo độ đời nên hiểu cương vị
của mình mà làm cho đúng mức của nó. Hễ tu thì phải làm cho đúng nghĩa của
người tu. Nếu làm sai tôn chỉ mục đích của nó, đó là tự mình làm mất an ninh
cho mình cũng như cho tập thể. Dầu có nguyện năm bảy trăm câu cũng chẳng ích
gì, lựa là ([2]) một câu.
2. Về
cả năm câu nguyện:
2.1. Tại Minh Lý Thánh Hội (quận 3, Sài Gòn), Tuất
thời, 15-12 Mậu Thân (Thứ Bảy 01-02-1969), Đức VẠN HẠNH THIỀN SƯ dạy:
Nhứt nguyện Đại Đạo hoằng khai.
Nhì nguyện phổ độ chúng sanh.
Tam nguyện xá tội đệ tử.
Tứ nguyện thiên hạ thái bình.
Ngũ nguyện thánh thất an ninh.
Năm
lời nguyện ấy đã định đoạt đến cho bất cứ ai mang mặc lấy danh từ học đạo, hành
pháp.
2.2. Tại thánh thất Tây Thành (Cần Thơ), Tý
thời, 12-3 Kỷ Dậu (Thứ Hai 28-4-1969), Đức QUAN ÂM BỒ TÁT dạy:
Còn
phần trước khi kết thúc của thời cúng là năm câu nguyện.
“Nhứt nguyện Đại Đạo hoằng khai.” Thử hỏi hoằng khai là gì? Có phải phát
triển, khai phóng, mở rộng từ cơ sở đến giáo lý cho quảng đại quần chúng hiểu
biết và làm theo hay chăng? Chớ không có nghĩa là đóng khung trong hình thức
nhỏ hẹp như một Hội Thánh, một thánh thất hoặc tịnh thất để cho một thiểu số
người mà dám gọi là Đại Đạo hoằng khai.
“Nhì nguyện phổ độ chúng sanh.” Phổ độ có nghĩa là mở rộng cùng khắp, độ rỗi
chúng sanh tu thành chánh quả, không phân biệt màu da chủng tộc và tông phái,
chớ không có nghĩa là chỉ nói đi nói lại bao nhiêu đó cho người tín hữu Cao Đài
mà thôi.
“Tam nguyện xá tội đệ tử.” Câu ấy nói lên cho người tín hữu tự nhận
mình đã trải qua nhiều kiếp, từ loài khoáng sản chuyển mình đến thảo mộc, thú
cầm mới đến loài người trong bánh xe tiến hóa. Trải qua nhiều kiếp, con người
đã gây nhiều nghiệp xấu, mà nghiệp xấu tức là tội lỗi. Do đó, trước Thiên Bàn,
gần mãn giờ cúng, cầu xin Thượng Đế giải trừ tội lỗi nghiệp chướng tiền khiên,
và cũng dạy cho người tín hữu phải có đức độ khoan dung tha thứ mọi lỗi lầm từ
kẻ khác đối với mình để thể hiện lòng bác ái vô biên của Thượng Đế. Mình có tha
thứ kẻ khác lầm lỗi với mình để thân thiện, giác ngộ, dìu dẫn họ lại đường
chánh giáo thì Thượng Đế mới xá lỗi tiền khiên của mình.
Vậy,
còn câu “Tứ nguyện thiên hạ thái bình”? Có phải là lòng thương người thương vật của người tín hữu Cao Đài,
muốn cho nhân loại được an hưởng trong cảnh thái bình, an cư lạc nghiệp, và
cũng gợi cho người tín hữu hiểu rằng, không phải cảnh thái bình tự nhiên ai đem
đến bố thí cho nhân loài, mà phải nhân loại tự tạo lấy cho mình. Muốn được thái
bình, trước nhất, mọi người phải lương thiện, có đức tánh công bằng của Nho
Giáo (những gì mình không muốn thì không làm việc ấy cho người khác);([3]) có đức tánh bác ái của đạo Lão (là lòng
thương đời vô biên, không điều kiện, mong dìu dẫn họ lại đường chánh lẽ chơn,
thương mọi người như thương gia đình quyến thuộc mình, dầu kẻ ấy là thù địch
với mình); phải có đức từ bi của đạo Phật (luôn luôn khởi lòng trắc ẩn trước
nỗi đau khổ của người khác mà tìm phương ban vui cứu khổ cho họ). (...)
Những
giáo lý do Chí Tôn đã vạch sẵn mà người đạo Cao Đài không đem phổ truyền cùng
khắp, tìm cách cảm hóa, phổ độ người đời biết được. Đừng ỷ vào câu “Hữu xạ tự
nhiên hương”. Đó là điều kiện đem lại thiên hạ thái bình. Chớ trong lúc nhân
sanh chưa hiểu đạo, chưa có công bằng, chưa có lòng thương kẻ khác, một xã hội
toàn đa số là người bất lương, giàu hiếp nghèo, mạnh lấn yếu, ỷ chúng hiếp cô,
khôn hiếp dại, điêu ngoa xảo trá, xây dựng vinh hoa phú quý trên cảnh đau khổ
cùng đinh và xương máu của kẻ khác, thử hỏi xã hội như vậy có đem lại được cảnh
thái bình cho thiên hạ không? Đó là câu nguyện thứ tư, nhắc đến nhiệm vụ nặng
nề căn bản của người tín hữu Cao Đài.
Còn
câu nguyện “Ngũ nguyện thánh thất an ninh.” Thánh thất nơi đây không có nghĩa nhỏ hẹp riêng của ngôi Thánh thể thờ
Đức Chí Tôn, gồm Bát Quái, Cửu Trùng và Hiệp Thiên. Ngoài cái nghĩa nhỏ hẹp ấy
lại còn có nghĩa rộng hơn nữa.
Thánh
thất là nhà thánh. Hễ nhà thánh là nhà của chư thánh hội họp, thảo luận mọi
việc theo thánh ý để hành thánh sự đúng theo tôn chỉ Đại Đạo. Đừng tưởng rằng
mình còn phàm trần nhục thể, không khi nào dám nghĩ đến nghĩa ấy. Vì người tín
hữu mà hằng ngày thảo luận, âu lo việc làm theo thánh ý, mở mang được thánh tâm
để thực hành được thánh sự, đó là thánh tại phàm rồi còn gì nữa.
(...) Chỉ
e rằng mình ở trong nhà thánh, nhưng ý còn phàm phu tục tử, hờn giận ghen ghét
đố kỵ, ố nhơn thắng kỷ,([4]) nói việc chẳng lành, làm việc chẳng lành,
như vậy mới không xứng đáng là chớ.
Câu này nghĩa lý còn dài hơn nữa,
nhưng hôm nay Bần Đạo chỉ nói những khía cạnh gần nhất đời sống chư hiền đệ
muội đó thôi. Đừng tìm kiếm đâu xa, chỉ chung quanh mấy bài kinh nhật tụng, tìm
hiểu đầy đủ nghĩa lý và thực hành cho đúng là đắc đạo tại trần.
2.3. Tại Trúc Lâm Thiền Điện (Vĩnh Long), Tý thời, 17 rạng
18-7 Canh Tuất (Thứ Ba 18 rạng Thứ Tư 19-8-1970), Đức ĐÔNG PHƯƠNG CHƯỞNG QUẢN dạy:
Lâu nay, nhận thấy phần đông chư hiền đệ
muội tụng đọc Ngũ Nguyện ở những câu:
“Nhứt nguyện Đại Đạo hoằng khai”,
nhưng cứ ngồi khoanh tay chờ đợi quyền năng vô hình nào để đến hoằng khai cho
mình.
“Nhì nguyện phổ độ chúng sanh”,
nhưng cứ thu hình trong cái vỏ ốc ích kỷ ngàn đời và chờ đến phép mầu vô lượng
nào đó để đến cứu rỗi mình.
“Tam nguyện xá tội đệ tử”, nhưng cứ cố
chấp những lỗi lầm, sơ suất của kẻ dưới, bề trên, và đồng đạo chung quanh, hoặc
cầu khẩn Đức Chí Tôn tha thứ tội tình mà hằng ngày mình đã tạo.
“Tứ nguyện thiên hạ thái bình”,
nhưng cứ để cõi lòng phóng túng bâng quơ, chồng chứa nhiều thị dục ([5]) làm bợn nhơ do
lớp bụi vô minh, không lúc nào được bình thản và sáng suốt.
Và cuối cùng, “Ngũ nguyện
thánh thất an ninh”, mà cứ xem
thường tôn ti trật tự trong Đạo, chơn truyền luật pháp lảng lơi, không chặt chẽ
nghiêm minh.
Như thế ấy, dầu cho chư hiền đệ muội phải
tụng suốt hằng bao nhiêu kiếp cũng chẳng khác nào nhai đi
nhai lại cái bài khô khan vô bổ.
Để xây dựng lại vấn đề thực hiện thống hợp
tâm linh tư tưởng, cần phải vạch rõ ý nghĩa cốt yếu của nó mới mong ý thức rõ
ràng trên sự tụng niệm thường nhựt.
Câu thứ nhứt: (...) Đạo là lý
hư vô bàng bạc trong không thời gian và tất cả, thì tất cả đều hấp thụ sự sinh
tồn bởi Đạo, cái Đạo vĩ đại vô cùng vô tận không kể xiết được.
Muốn hoằng khai cho thiên hạ biết được
Đạo, phải qua trung gian của thiên hạ, tức là con người, là chư Thiên mạng có
trọng trách thế Thiên hành đạo.
Thế Thiên hành đạo không phải chỉ ở hàng
chức sắc, chức vụ phẩm vị cao, mà bất cứ ai có tâm thành vì đạo, có nhận thức
đạt được lý Đạo, đều có thể hoằng khai với bất cứ hình thức nào.
Đối với mình, không hủy hoại tinh thần hay
thể xác bằng những vật dục sở tế, khí bẩm sở câu,([6]) cũng là đúng
theo Đạo.
Đối với gia đình, xử cho ra vẻ vai trò của
mình trong địa vị cũng là đúng theo Đạo.
Đối với xã hội nhơn quần, đều lấy lòng
nhân, trung nghĩa mà xử thế tiếp vật,([7]) không gây thù
chác oán, chỉ đem tình thương của con người chính danh ban rải cho con người.
Đó cũng là tuân theo Đạo.
Và hơn nữa là đem chơn truyền pháp nhiệm
của Đấng Cha Lành gieo rải cho toàn cả sanh linh tiếp nhận hầu trở về lẽ sống
tự nhiên của nhân bản, của chơn như Phật thể. Ấy cũng là Đạo.
Hễ nói đến Đạo thì nói đến cái tiết điệu
hoạt động của Đạo như thế nào.
Đấng Tạo Hóa sanh thành vạn vật bởi cái
Đạo bao trùm, nên Ngài dưỡng dục quần sinh rất đầy đủ mà rất tự nhiên, không ai
hay biết để tán thưởng ca tụng Ngài. Như mặt trời,
mặt trăng giúp vạn vật sống còn theo định luật tự nhiên, mà mặt trời, mặt trăng
có bao giờ nói mình đã làm gì đâu, có bảo thiên hạ vạn vật khen ngợi mình đâu.
Dòng nước từ biển cả cứ chảy luân lưu vào
những sông ngòi, suối lạch. Chỗ nào trũng thấp không có nước, tức thì nước cứ
êm đềm chảy đến đó cho đầy đủ mới thôi. Có bao giờ nước lại ham chảy lên gò lên
chỗ cao tột đâu.
Tất cả những tác vi điển hình trên đều là
hành động của Đạo.
Là người tín đồ Đại Đạo của Trời, phải noi
theo hành động của Trời mà làm theo. Khi làm được, tức thị ([8]) đã
thể hiện, đã hoằng khai được Đạo vậy. Và khi đã thực hiện được lẽ Đạo ấy rồi,
sự phổ độ chúng sanh ở câu thứ hai rất dễ dàng.
Chúng sinh nói chung, từ loài khoáng vật
tế vi đến loài vĩ đại như con người.
Về chúng sinh rất nhỏ, ngay ở nội thân
mình đã có. Muốn phổ độ chúng thì mình không nên lạm dụng lãng phí những tế vi
tế bào trong thân người, vì nhờ nó mà thể xác được tồn tại, được sống còn để lo
chuyện cao xa.
Về chúng sinh vĩ đại, từ động vật, con
người, muốn phổ độ thì phải tận dụng quyền năng nhân bản của mình đối với mọi
vật mọi người. Không đánh đập, sát hại, gây gổ với bất cứ vật gì, người nào.
Trái lại còn phải ban bố cho họ những tình thương Thượng Đế vốn sẵn bao giờ mà
trên kia mình đã có.
Câu thứ ba là đối với tất cả mọi người chung quanh
mình, từ trên tới dưới, từ lớn tới nhỏ, đều sẵn sàng khoan dung tha thứ, dù ai
gây lỗi với mình cũng vậy. Một khi biết cầu khẩn Đấng Chí Tôn tha thứ lỗi lầm
của mình, thì mình hãy thể theo lòng từ ái của Ngài để tha thứ anh em, chị em
của mình tại thế gian, vì thế gian không phải là một cõi hoàn toàn thánh thiện,
nên lắm điều còn ô trược, tránh sao những vấp phải lỗi lầm, hoặc nhiều hay ít
cũng vậy.
Sự tha thứ, lòng từ bi bác ái không giới
hạn ở đâu, nghĩa là vô biên, chớ chẳng phải chỉ tha thứ, chỉ bao dung rộng
lượng đối với hạng dưới tay thân thuộc của mình, mà không tha thứ bao dung đối
với kẻ thù nghịch, vì là con chung của Đấng Cha Lành. Với người bất nhơn thất
đức, có được hạnh như vậy thì mới tiến được giai đoạn nữa là câu thứ tư “Thiên hạ thái bình”.
Mỗi khi cõi lòng của con người (thiên hạ) không còn chút vương vấn những thiên vị, những cố chấp bởi hoàn cảnh,
bởi nhơn tâm chung quanh, thì tự nhiên sự bình tĩnh được phục hồi, không bận không lo điều sái lẽ phải,
điều thiệt lẽ hơn, cái thua cái được, niềm thương nỗi ghét. Thái bình lúc ấy
được lập lại nơi nội tâm con người vậy. Rồi con người cộng với hằng hà sa số
con người thì ra thiên hạ. Khi mỗi thiên hạ được thái bình trong lòng rồi, thì
thế giới thiên hạ đang ở sẽ không còn hỗn loạn, phân ly, xung đột với nhau nữa.
Sở dĩ con người không được thái bình nội tại,
vì có tâm chấp trước. Một đàng thì muốn về Niết Bàn Cực Lạc hay Bạch Ngọc Kinh
hưởng phước đời đời, một đàng thì muốn công danh chức tước vinh thân phì gia,([9]) và đàng khác
lại sợ sa vào địa ngục chịu đày đọa đời đời. Hỏi vậy con người nhiều dục vọng tham
lam như thế, nội tâm có được thái bình chăng? Dĩ nhiên là không vậy.
Thiên hạ được thái bình rồi, bây giờ nói
thêm câu cuối cùng:
“Thánh thất an ninh”.
Mới nghe qua, những ai tò mò đều lấy làm
ngạc nhiên, tại sao Đại Đạo Cao Đài chủ trương vạn giáo nhứt lý, đại đồng nhơn
loại mà lại chỉ cầu nguyện cho một thánh thất, thánh tịnh, Hội Thánh mình an
ninh, yên lành thôi? Không phải vậy đâu, chư hiền đệ muội.
Như chư hiền đệ muội đã hiểu: Thánh thể
của Đức Chí Tôn gồm có ba phần: Bát Quái Đài, Hiệp Thiên Đài và Cửu Trùng Đài.
Ba đài hiệp lại thành một thánh thể chung. Thánh thể hữu hình tượng trưng cho
guồng máy Đại Đạo xoay vần trong càn khôn thế giới. Vì nếu hầu hết con người
trên thế gian đều chấp nhận cái hình thức thánh thể ấy để đạt được cái
lý siêu nhiên của Trời, của Đạo, gìn giữ được những bửu vật cố hữu của con
người muôn thuở, thì càn khôn sẽ được an tịnh, thế giới sẽ được an ninh, phong
hòa võ thuận,([10]) thế giới an
khương.
Đó là ý nghĩa năm câu nguyện của đạo Thầy thường tụng niệm.
2.4. Tại Vĩnh Nguyên Tự (Cần Giuộc, Long An), Ngọ
thời, 15-3 Bính Thìn (Thứ Tư 14-4-1976), Đức NHƯ Ý ĐẠO THOÀN CHƠN NHƠN dạy:
Nhứt nguyện Đại Đạo hoằng khai,
Vì đời nào ngại chông gai dữ lành.
Nhì nguyện phổ độ chúng sanh,
Quyết đem hoằng giáo đạo lành giáo dân.
Tam nguyện tha tội bản thân,
Khoan dung phá chấp cõi trần vô minh.
Tứ nguyện thiên hạ thái bình,
Tịnh tâm chế động muôn nghìn trái oan.
Ngũ nguyện thánh thất bằng an,
Hai ngày sóc vọng đăng đàn thuyết minh.
Trấn an tâm đạo nhân sinh,
Vai trò un đúc đức tin đạo đồng.
HUỆ KHẢI soạn
20-10-2018
*
Nếu quý bạn thích có
tập sách nhỏ này, kính mời quý bạn gởi thư về daidaovanuyen@gmail.com. Cảm ơn quý
bạn quan tâm. (Chương Trình Chung Tay Ấn
Tống Kinh Sách Đại Đạo)