VỀ BÀI
KỆ KHAI KINH
LÊ ANH MINH
Kệ 偈 là bài tụng 頌 (hymn, chant, song,
verse) có vần điệu, đọc ngân nga. Thuật ngữ này gốc tiếng Phạn (Sanskrit) là gāthā mà các nhà Phật học phiên âm Hán là 伽陀 cà đà, 伽他 cà tha, 偈陀 kệ đà, 偈佗 kệ đà, gọi tắt
là kệ; hoặc ghép âm Phạn với nghĩa
Hán là 偈句 kệ cú, 偈言 kệ ngôn, 偈語 kệ ngữ, 偈頌 kệ tụng, 偈文 kệ văn.
Đọc giai
thoại về các danh tăng, ta thường thấy các ngài nói: “Nghe kệ ta đây!” Tức là kệ
có thể do cá nhân nói. Ngoài ra, kệ là một phần của kinh điển, thường gồm bốn
câu (tứ cú kệ 四句偈), mỗi câu có thể gồm bốn, năm, hay bảy chữ.
Thí dụ
bài kệ nổi tiếng của ngài Huệ Năng (638-713) chép trong Pháp Bảo Đàn Kinh (Hành Do phẩm
đệ nhất), gồm bốn câu, mỗi câu năm chữ:
Bồ đề bản
vô thụ / Minh kính diệc phi đài / Bản lai vô nhất vật / Hà xứ nhạ trần ai?
菩 提 本 無 樹 / 明 鏡 亦 非 臺 / 本 來 無 一 物 / 何 處 惹 塵 埃
(Bồ đề chẳng phải cây / Gương sáng chẳng
phải đài / Xưa nay không một vật / Chỗ nào vướng trần ai?)
Hay bài kệ
nổi tiếng trong Kim Cương Kinh, gồm bốn
câu, mỗi câu năm chữ:
Nhất thiết
hữu vi pháp / Như mộng huyễn bào ảnh / Như lộ diệc như điện / Ưng tác như thị
quán.
一 切 有 為 法 / 如 夢 幻 泡 影 / 如 露 亦 如 電 / 應 作 如 是 觀
(Tất cả pháp hữu vi / Như mộng, ảo, bọt, ảnh
/ Như sương cũng như chớp / Nên quán xét như thế.)
Bài kệ mở
đầu các kinh Phật Hán tạng (Nhị Kỳ Phổ Độ) gồm bốn câu, mỗi câu bảy chữ:
Khai
Kinh Kệ
Vô thượng
thậm thâm vi diệu pháp / Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ / Ngã kim kiến văn đắc
thọ trì / Nguyện giải Như Lai chân thực
nghĩa.
開 經 偈
無 上 甚 深 微 妙 法 / 百 千 萬 劫 難 遭 遇 / 我 今 見 聞 得 受 持 / 願 解 如 來 真 實 義
Chú thích
Câu 1: Vô
thượng: Tối cao, không có gì ở trên nữa. Thậm thâm: Rất sâu, sâu
thẳm. Vi diệu: Tế vi (nhỏ nhặt, tinh tế) và huyền diệu. Pháp:
Phật pháp. Câu 1: Phật pháp vi diệu, sâu thẳm, tối cao.
Câu 2: Bách
(bá): Trăm. Thiên: Ngàn. Vạn: Muôn, mười ngàn. Bách
thiên vạn: 1.000.000.000 (một tỷ), nhưng đây là số tượng trưng, ý nói
nhiều lắm không kể xiết (countless),
vô số. Kiếp: 1/ Nghĩa thông thường là kiếp người (human life), như nói: tiền kiếp (former life), kiếp này (this
life), kiếp sau (afterlife). 2/
Kiếp gốc tiếng Phạn là kalpa, được
chuyển âm Hán là 劫波 (kiếp ba), 劫簸 (kiếp bá), 劫跛 (kiếp bả), nói
tắt là 劫 (kiếp). Kiếp là một khoảng thời gian rất dài (aeon) của vũ trụ. Từ lúc hình thành cho đến tái tạo, vũ trụ trải
qua bốn đại kiếp 大劫 (mahākalpa): thành kiếp 成劫 (vivarta kalpa), trụ kiếp 住劫 (vivarta-siddha
kalpa), hoại kiếp 壞劫 (saṃvarta kalpa), không kiếp 空劫 (diệt kiếp 滅劫: saṃvarta-siddha kalpa).
Một đại kiếp chia ra hai mươi tiểu kiếp 小劫 (antara-kalpa).
Theo Từ điển Phật học của William
Edward Soothill, một tiểu kiếp dài 16.800.000 năm; một kiếp dài 336.000.000
năm; và một đại kiếp dài 1.334.000.000 năm. Tóm lại, dù hiểu kiếp người hay kiếp
vũ trụ, thì bá thiên vạn kiếp là một
thời gian vô cùng lâu dài.
Câu 3: Ngã:
Tôi. Kim:
Ngày nay. Kiến: Thấy. Văn: Nghe. Đắc thọ trì: Được nhận
lãnh và giữ lấy. Câu 3: Ngày nay tôi thấy, nghe, và được thọ trì [Phật
pháp].
Câu 4: Nguyện:
Mong muốn. Giải: Hiểu rõ (liễu giải 了解). Như Lai: Dịch từ tiếng Phạn là Tathāgata, một trong mười danh hiệu của Đức Phật Thích Ca. Kim Cương Kinh có câu: “Vô sở tòng lai, diệc vô sở khứ, cố danh Như
Lai.” 無所從來, 亦無所去, 故名如來. (Chẳng từ
đâu đến, cũng chẳng đi đâu, nên gọi là Như Lai.) Chân thực nghĩa: Ý nghĩa
chân thật. Câu 4: Tôi nguyện hiểu rõ ý nghĩa chân thật lời Phật dạy.
Cụ Đoàn
Trung Còn (Thích Hồng Tại, 1908-1988) dịch:
Bài Kệ Khai Kinh
Pháp mầu của Phật sâu thẳm và cao diệu không chi sánh bằng,
Cho đến trăm ngàn muôn kiếp cũng khó mà gặp được;
Nay tôi thấy, nghe, và được thọ trì,
Nguyện rõ nghĩa chơn thật của Đức Như Lai.
Ngài D.T.
Suzuki (Linh Mộc Đại Chuyết 鈴木大拙, 1870-1966) dịch:
Gatha on Opening the Sutra
The Dharma incomparably profound and exquisite
Is rarely met with, even in hundreds of thousands of
millions of kalpas;
We are now permitted to see it, to listen to it, to accept
and hold it;
May we truly understand the meaning of the Tathagata’s
words!
(Phật
pháp thâm sâu vô đối và tinh tế
Hiếm khi được
gặp, dù trải hàng trăm hàng ngàn hàng triệu kiếp;
Chúng ta nay
được gặp, nghe, nhận giữ,
Nguyện xin hiểu
rõ ý nghĩa lời nói của Như Lai.)
Bài Kệ
Khai Kinh của Phật Giáo được dùng trong Di
Lạc Chơn Kinh của đạo Cao Đài với chút sửa đổi ở câu 3 (kiến văn → thính văn) và câu 4 (Như Lai →
tân kinh).
Như vậy, trong
hai câu “Ngã kim thính văn đắc thọ
trì / Nguyện giải tân kinh chơn thiệt nghĩa”, hai từ gạch dưới có
nghĩa:
Thính 聽: (Chú ý) lắng nghe (listen). Văn 聞: Nghe được, nghe ra, nghe thấy (hear). Chẳng hạn, ngồi làm việc trong nhà, dù
không chú ý lóng tai nghe (thính / listen), chúng ta vẫn nghe được (văn / hear) tiếng xe cộ ngoài phố, v.v…
1. Khi đọc
lại lời Phật thuyết, Ngài A Nan (Ānanda,
thế kỷ 5-4 trước Công Nguyên) mở đầu mỗi quyển kinh bằng cách xác định: “Evaṃ mayā śrūtaṃ.” Các bản chữ Hán dịch
là: Như thị ngã văn. 如是我聞. (Tôi đã nghe được như vầy: So I have heard / Thus I have
heard.)
2. Đạo Đức Kinh (chương 14): “Thính chi bất
văn.” 聽之不聞. James Legge (1815-1897) dịch:
We listen to it, and we do not hear it.
(Chúng ta lắng nghe, mà không nghe được.)
Dùng như
từ ghép (compound), thính
văn 聽聞 có nghĩa là lắng
nghe được với sự chú ý, chú tâm (listening; hearing
what somebody says).
Tân kinh 新經: Kinh mới (new
sutras), là các kinh của đạo Cao Đài (thuộc Tam Kỳ Phổ Độ), phân biệt với
kinh cũ (cựu kinh 舊經: old sutras) là
những kinh của các tôn giáo thuộc Nhất Kỳ và Nhị Kỳ Phổ Độ.
LÊ ANH MINH
Bà Chiểu, 28-7-2020