ÔNG GIÀ
SAU CƠN BÃO
LÊ
THỊ TÂM
Quê tôi vùng đông Thăng Bình, Quảng
Vậy mà khí hậu nơi đây rất khắc nghiệt, quanh năm chỉ
có hai mùa hạn hán và bão lũ. Mùa hè kéo dài từ cuối tháng Hai đến đầu tháng
Mười âm lịch với cái nắng nung người mang theo từng đợt gió Lào như thiêu như đốt,
cháy hết cỏ cây. Trên sa mạc cát trắng ấy, dưới cái nắng mùa hè nóng bỏng da
chân đó chỉ có năm ba cây thông liễu cọc còi, vài bụi dứa dại mới tồn tại nổi
mà thôi.
Dọc theo quốc lộ 1 về hướng tây cũng có những đồng
lúa xanh tươi, những mùa vàng bội thu. Đó là vào vụ đông xuân, nước chưa khan
hiếm. Vụ hè thu vì là ruộng ở cuối kênh thủy lợi nên đất thường nứt nẻ, lúa héo
khô, phải đào ao, vét mương tìm nguồn nước để tưới cho lúa. Để rồi khi lúa vừa
chín tới, nước lũ về, tất cả chìm trong biển nước mênh mông. Người nông dân
trắng tay như loài dã tràng xây nhà trên cát biển. Họ kiếm ăn qua ngày rồi lại
tiếp tục sản xuất. Cuộc sống vẫn tiếp diễn, vẫn vui vẻ gắn bó với quê hương.
Bởi sự khắc nghiệt ấy đã sinh ra những con người ý chí kiên cường. Khó khăn
gian khổ không làm họ nản chí, biết chấp nhận và sống chung với lũ, và hơn ai
hết họ hiểu ý nghĩa của hai chữ vô thường.
Có một chuyện làm tôi nhớ mãi không thôi. Những năm
sau chiến tranh, vào một buổi chiều mùa thu, khi quê tôi vừa chịu một trận bão
lũ lớn. Mưa đã dứt nhưng trời vẫn âm u xám xịt. Heo gà bị nước cuốn trôi, nhà
cửa bay cả mái, cây cối ngả nghiêng, những bụi tre bật gốc, trụi lá nằm chắn cả
lối đi. Tôi đang dọn dẹp trước nhà, lòng nặng trĩu âu lo. Một ông già tay chống
gậy, người nhỏ bé, vai mang cái bọc có lẽ là áo quần, gói trong chiếc áo mưa cũ
ngả màu vàng đất, đôi chân trần chai sần cong vẹo, đầu đội chiếc nón tạm gọi là
lành hơn bộ đồ ông đang mặc. Ngửa bàn tay thô ráp trước mặt tôi, ông bảo: “Con
ơi, nhà có gạo cho ông một ít. Cho ông miếng nước nóng nữa con hỉ. Đi từ sớm
mai đến chừ mệt, khát nước quá!”
Nhìn ông tôi bỗng giật mình. Không biết ông đi bằng cách
nào mà tới được đây. Không để ông đợi lâu, tôi đi vào trong xúc chén gạo đổ vào
cái túi vải ông đeo trước ngực và cũng không quên đem ra mời ông ly nước nóng.
Ông đón ly nước trên tay tôi, ngồi xuống thềm nhà và uống cạn. Đợi ông uống
xong, tôi nhận lại ly trên tay ông rồi hỏi nhỏ: “Ông ở mô? Con cháu có đông
không mà đi ri ông? Nhà cửa ông có hư không? Làng ông có thiệt hại nhiều không?”
Ông chậm rãi: “Ông ở thôn Thái
Vẻ mặt bình thản, ông bắt đầu kể: “Hồi trước ông cũng
có nhà cửa, có gia đình đàng hoàng chớ. Năm xảy chiến tranh, nhà ông trúng bom,
vợ con chết hết, nhà cháy luôn. Lúc đó ông đang ở ngoài đồng, may còn sống sót.
Bà con lối xóm cho tre, cho rạ ông cất lại cái chòi nhỏ trên nền đất cũ. Vừa
rồi nó dột quá nên ông xuống bàu cắt cỏ lát lợp lại xong. Bão mới đây lại thổi
bay mất rồi. Ông ở hiên trường bình dân xưa rày. Mưa thì lấy mấy miếng áo mưa
che đỡ. Già tám mươi tuổi rồi, con ơi! Biết sống mấy bữa nữa mà lo nhà.”
Rồi ông lại cười và thong thả đứng lên: “Thôi, ông về
kẻo tối không thấy đường đi. Nấy gạo đây để dành bữa mô mưa gió không đi được
thì có nấu.”
Vừa nói ông vừa bước đi. Tôi áy náy: “Rồi ông ăn cơm với chi? Để con
vào sớt cho ông ít nước mắm gởi ông hỉ?”
Ông khoát tay: “Thôi con ơi, nấu cơm bỏ vài hột muối hơi mặn mặn là ăn
được rồi.”
Ông vừa nói vừa đi. Tôi chẳng biết nói chi, chỉ nhìn
theo: “Dạ ông đi. Coi chừng đạp gai nghe ông.”
Thực sự trong lòng tôi muốn giúp ông lắm nhưng cái
thời bao cấp thiếu thốn đủ thứ mà cơn bão mới vừa tàn phá nữa. Thương lắm mà
chẳng biết làm chi. Dáng liêu xiêu, ông lần ra ngõ, qua đám cành cây ngổn ngang
chưa kịp dọn. Không biết ông có về kịp trước khi trời tối.
Tội nghiệp ông khi tuổi đã gần đất xa trời mà tất cả
chỉ là con số không: không nhà cửa, không gia đình, không người thân, và cả
miếng ăn cũng không có. Vậy mà ông vẫn vui vẻ chấp nhận, vẫn cười khi nhắc lại
câu chuyện buồn của đời mình.
Tôi cảm phục ông quá, rồi bỗng nhiên tôi ngộ ra một
điều: Phải chăng sướng khổ tự nơi tâm?
LÊ
THỊ TÂM (Củ Chi)